Vùng đất Thanh Hóa vẫn thường được coi là nơi “Đế vương chung hội”, còn Cao Bằng lại được coi là nơi các bậc “Đế vương ẩn náu”… Các nhà nghiên cứu địa lý – phong thủy đã đưa ra những lý giải về việc tại sao các bậc Đế vương lại chọn hai vùng đất này.
Thanh Hóa – Vùng đất của Đế vương
Những nhân vật xuất thân nhờ “đất vua” này có thể kể đến như Bà Triệu (huyện Yên Định, Thanh Hóa), “vua không ngai” Dương Đình Nghệ (huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa), Lê Hoàn (tức vua Lê Đại Hành), Hồ Quý Ly (Đại Lai, Thanh Hóa), Lê Lợi, nhà Nguyễn (Hà Trung, Thanh Hóa), chúa Trịnh.
Ở đây, chúng ta sẽ đề cập đến một địa danh đã đi vào lịch sử là Lam Sơn, thuộc huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa (nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), là nơi các nhà sử học, phong thủy học thường nhắc đến với những chiêm nghiệm về địa lý, về nguyên khí hun đúc nên vùng địa linh nhân kiệt này, để lại những ghi chép đáng để chúng ta ngày nay suy ngẫm.
Chẳng hạn, sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói: “Đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định “dời nhà đến ở đấy”.
Những ghi chép trên của Ngô Sĩ Liên tuy khá vắn tắt, song cũng đã thông tin về một trong các yếu tố liên quan đến phong thủy của vùng đất phát vương. Tức vùng đất không thuộc về nơi “sơn cùng thủy tận”, cũng không phải nơi “tuyệt địa” vắng vẻ. Mà là nơi “chim tụ hội thành đàn” đông vui, ríu rít, là đất “tụ khí tàng phong” khác hẳn với những miền hung địa.
Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất chu tước cất tiếng kêu sầu, hoặc đất bạch hổ hàm thi, tức là ám chỉ con hổ đang ngậm xác chết trong miệng, hoặc xương long vô túc, tức rồng không có chân, rồng bị tật nguyền… Như thế, Lam Sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc mở đầu nghiệp đế của nhà Lê là Lê Lợi.
Khi tổ nhà Lê là cụ Hối dời về ở Lam Sơn thì chỉ sau 3 năm đã gây thành sản nghiệp lớn và từ đó trở đi họ Lê làm quân trưởng một phương, trong nhà lúc nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải các đời sau sinh ra Lê Lợi với “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Theo truyền thuyết, nhà họ Lê được các thầy địa lý và các nhà sư thượng thừa về khoa phong thủy chỉ dẫn và báo mộng cho biết một huyệt đất phát vương (ở động Chiêu Nghi). Theo cụ Tả Ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ các điều kiện được cụ diễn ca qua mấy câu lục bát sau đây:
Ngũ tinh cách tú triều nguyên
Kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn
Thổ tinh kết huyệt trung ương
Ấy đất sinh thánh sinh vương đời đời.
Muốn hiểu các câu lục bát của cụ Tả Ao về đất phát vương nêu trên hẳn phải chú trọng, quan sát hình dáng của cuộc đất (theo Ngũ hành) gồm: hình tròn thuộc Kim tinh, hình doi thuộc Mộc tinh, hình vuông thuộc Thổ tinh, hình nhọn thuộc Hỏa tinh, hình sóng thuộc Thủy tinh. Theo đó Thổ phải ở vị trí chính giữa và Kim, Mộc, Hỏa, Thủy sẽ tuần tự vây quanh.
Thực hư về đất phát vương ở Chiêu Nghi như thế nào chưa bàn tới. Chỉ căn cứ trên chính sử, thì năm Lê Lợi lên 33 tuổi (Mậu Tuất 1418) đã dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, trong khoảng 10 năm sau đó đuổi sạch quân Minh xâm lược, bắt sống tướng tá và 10 vạn viện binh của nhà Minh đều thua cả.
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế vào ngày rằm tháng Tư (Mậu Thân 1428) và lập tức xuống chiếu tha thuế cho dân chúng cả nước: “Các thứ thuế như tô ruộng, vàng bạc, đầm phá, bãi dâu trong cả nước đều tha trong 2 năm”. Và ban bố nhiều điều lợi ích cho dân chúng. Đó là cách tích đức của bậc Đế vương, vừa tỏ lòng thương dân, thuận ý trời vừa để phúc cho con cháu đời sau.
Điều đó phù hợp hoàn toàn với lời giáo huấn lưu truyền từ lâu đời trong truyền thống nhân nghĩa và trong đời sống tinh thần của các thầy địa lý, các nhà phong thủy là “Tiên tích đức, hậu tầm long” – đại ý có nghĩa trước hết cần phải chứa đức, rồi sau đó hãy tìm long mạch…
Phải chăng việc tích đức của Lê Lợi đã dẫn đến kết quả tốt đẹp là sự tồn tại của nhà Lê kéo dài từ thời Lê sơ với 10 đời, gồm 100 năm (1428 – 1527), đến thời Lê trung hưng với 16 đời, gồm 265 năm nữa (1533 – 1789) qua các triều Mạc, chúa Trịnh và chúa Nguyễn.
Cao Bằng – Đất ẩn náu của bậc Đế vương
Nếu Thanh Hóa được xem là vùng đất phát tích của Vua, Chúa, thì Cao Bằng được xem là nơi Đế vương ẩn náu.
Thời nhà Mạc, khi vận nước rối bời, vua Mạc Mậu Hợp đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về thế cuộc, Trạng Trình đã đáp rằng: “Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời”. 7 năm sau vua Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi Thăng Long, nhớ lời dặn cụ Trạng liền về đất Cao Bằng, quả nhiên giữ thêm được 96 năm nữa.
Từ đó Cao Bằng được xem là đất dung thân, ẩn náu của các bậc Đế vương. Xưa kia khi Cao Biền được lệnh trấn yểm các vùng đất quý của nước Việt, đã xây thành Đại La (tức Thăng Long sau này) và thành Nà Lữ ở Cao Bằng. Sau này người Việt đã tìm cách hóa giải cách trấn yểm của Cao Biền, Đến nay di tích thành Nà Lữ vẫn còn ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An. Khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng đã chiếm Nà Lữ và xây thành đá trên núi để phòng ngự
Năm 1052 thủ lĩnh người Tráng (người Tày, Nùng) ở Cao Bằng là Nùng Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam đưa quân sang tấn công bên đất Tống.
Được sự ủng hộ giúp đỡ của người Thái, người Tày ở Quảng Tây, Nùng Trí Cao chiếm được rất nhiêu Châu bên đất Tống: Hoành châu, Quý châu, Cung châu, Tầm châu, Đằng châu, Ngô châu, Khang châu, Đoan châu. Ung Châu, xưng đế một phương.
Đến nay Cao Bằng được xem là nơi “tụ khí tàng long” rất tốt đẹp cùng nhiều danh lam thắng như thác Bản Giốc, thác Nặm Trá, núi Mắt Thần tạo ra nhiều sinh khí cho vùng đất này.
TinhHoa tổng hợp