“Mohenjo-daro”, nằm ở tỉnh Sindh của Pakistan, là một thành phố quan trọng của nền văn minh cổ đại Ấn Độ. Vì có mức độ hiện đại hóa cao, nơi đây được mệnh danh là “đô thị của nền văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại”. Nhưng vào một ngày cách đây khoảng hơn 3.600 năm, đột nhiên 40.000 cư dân sống trong thành phố này đều tử vong chỉ sau một đêm. Chỉ còn lại 44 bộ hài cốt, và thành phố này cũng theo đó mà trở thành một phế tích. Do nơi này có nhiều hiện tượng kỳ lạ mà cho đến nay vẫn chưa thể giải thích được, nên người ta gọi đây là “Sự kiện Gò Chết” của Ấn Độ.
Theo các báo cáo của truyền thông nước ngoài, vào thời đại văn minh cổ xưa, quy hoạch đô thị của Mohenjo-daro được thiết kế theo dạng bàn cờ, kiểu dáng thường được sử dụng trong thời hiện đại. Nhà nào cũng có phòng tắm và nhà bếp, thậm chí còn có hệ thống thoát nước ngầm và bể tắm công cộng. Đây là một thành phố hiện đại hóa cao độ, với tổng cộng khoảng 40.000 người sinh sống.
Tuy nhiên, vào một ngày nọ, người dân trong thành phố đều biến mất chỉ sau một đêm, thành phố ngay lập tức biến thành một đống đổ nát. Năm 1922, khi các nhà khảo cổ học khai quật di chỉ này, họ kinh ngạc phát hiện toàn bộ thành phố đều là những bộ xương khô, nên đã đặt tên cho nơi này là “Mohenjo-daro”. Trong tiếng Ấn Độ, cái tên này có nghĩa là “Gò Chết” (Mound of the Dead).
Những bộ hài cốt do các nhà khảo cổ khai quật cho thấy, khi thành phố bị hủy diệt, những cư dân này đều đang làm việc riêng của mình. Có người đang đi bộ trên đường, có người đang lấy nước uống, có người đang nghỉ ngơi trong nhà. Tức là những người này đều chết một cách đột ngột, không có dấu hiệu hoảng loạn, nên đã loại trừ nguyên nhân do chiến tranh hay thiên tai. Về nguyên nhân khiến Mohenjo-daro bị hủy diệt chỉ sau một đêm, hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Có không ít người cho rằng nguyên nhân là do bệnh truyền nhiễm hoặc sự xâm lược của người ngoài hành tinh.
Sau khi điều tra sâu hơn, các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu vết của vụ nổ trong thành phố. Ngoài việc mức độ hư hại tại tâm vụ nổ là rất nghiêm trọng, các tòa nhà xung quanh cũng bị san phẳng. Mức độ phá hủy giảm dần từ tâm vụ nổ ra bên ngoài. Vụ nổ còn để lại nhiều khối vật chất được tạo thành từ đất sét và khoáng chất bị nung chảy. Theo thực nghiệm chứng minh của Đại học Rome và Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Ý, nhiệt độ nóng chảy của vụ nổ tại Mohenjo-daro lúc bấy giờ có thể lên tới 1.400 đến 1.500 độ C. Nhiệt độ này tương đương với nhiệt độ của một đám cháy rừng kéo dài nhiều ngày hoặc lò nung của xưởng luyện kim.
Vào thời điểm đó, trong thành phố này không có rừng rậm. Thêm vào đó, lịch sử Ấn Độ từng lưu truyền một đoạn truyền thuyết về thời viễn cổ, mô tả về những “hoàng hôn kỳ lạ”, “ánh sáng chói lòa” và “cực quang màu tím trắng”. Do đó, các nhà khảo cổ học cũng dần quy kết nguyên nhân biến mất của thành phố là do một “vụ nổ lớn không rõ nguyên nhân”. Với công nghệ hiện đại, đó chính là “vụ nổ hạt nhân”. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy con người mãi đến sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc mới được Hoa Kỳ chế tạo thành công bom nguyên tử lần đầu tiên. Vì vậy, việc sở hữu bom nguyên tử và gây ra vụ nổ từ 3.600 năm trước e rằng vẫn cần phải được kiểm chứng.
Được biết, khi các nhà khảo cổ đưa ra giả thuyết về vụ nổ hạt nhân, các nhà khoa học lại không tìm thấy bất kỳ dấu vết phóng xạ nào tại di chỉ Mohenjo-daro. Họ chỉ có thể phỏng đoán rằng đó là một loại vụ nổ lớn có sức công phá ngang ngửa vụ nổ hạt nhân nhưng không sinh ra chất phóng xạ. Do đó, sự kiện Gò Chết cho đến nay vẫn chưa có lời giải, và được liệt kê cùng với vụ nổ Thiên Khải ở Trung Quốc và vụ nổ Tunguska ở Nga là một trong “Ba bí ẩn tự nhiên lớn của thế giới”.
Trong video đăng tải ngày 15 tháng 3 năm nay, thần đồng tiên tri Ấn Độ Abhigya Anand cũng đã nói về cuộc chiến tranh hạt nhân này. Cậu Anand nói rằng, sử thi “Mahabharata” ghi lại một trong những cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất trong lịch sử. Cuộc chiến tranh tiền sử này đã sử dụng vũ khí hạt nhân cỡ lớn, vũ khí sóng âm và nhiều công nghệ tiên tiến. Tất cả những điều này nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, bởi vì rốt cuộc cuộc chiến này đã xảy ra vào khoảng năm 3000 trước Công nguyên, tức là cách đây hơn 5.000 năm.
Nhiều người có thể cảm thấy điều này thật khó tin. Bởi vì bom nguyên tử mới chỉ được phát minh chưa đầy một trăm năm, làm sao con người cách đây hơn 5.000 năm lại có thể sở hữu vũ khí hạt nhân? Sử thi cổ đại nổi tiếng của Ấn Độ “Mahabharata”, kể về câu chuyện cuộc chiến tranh giành ngai vàng giữa hai tộc Pandava và Kaurava. Cùng với “Ramayana”, đây được gọi là hai bộ sử thi lớn của Ấn Độ, được viết thành sách vào năm 1500 trước Công nguyên. Nghe nói những sự thật lịch sử được ghi lại trong sách còn sớm hơn thời điểm viết sách ít nhất 2.000 năm, tức là những sự việc trong sách đã xảy ra ít nhất cách đây hơn 5.000 năm.
Cuốn sách này ghi lại hai cuộc chiến tranh ác liệt giữa người Kaurava và người Pandava, người Vrishni và người Andhaka sống ở thượng nguồn sông Hằng, Ấn Độ. Điều khiến người ta khó hiểu và kinh ngạc là nhìn từ những mô tả về hai cuộc chiến này, đó chính là chiến tranh hạt nhân!
Cuộc chiến thứ nhất trong sách được mô tả như sau: “Athwatan dũng cảm ngồi vững trong Vimana (Vimana là một loại phương tiện bay giống như phi cơ), hạ cánh xuống nước và phóng ra ‘Agneya’ (Agneya là một loại vũ khí giống như hoả tiễn). Agneya tạo ra và phóng ra những mũi tên lửa dày đặc trên bầu trời phía quân địch, giống như một trận mưa bão, bao vây kẻ thù, uy lực vô cùng. Trong chốc lát, một bóng đen dày đặc nhanh chóng hình thành trên bầu trời phía quân Pandava. Bầu trời tối sầm lại, trong bóng tối, tất cả la bàn đều mất tác dụng. Tiếp đó, những cơn gió dữ dội bắt đầu thổi, gầm thét, cuốn theo bụi đất, sỏi đá, chim chóc kêu la điên cuồng… dường như trời long đất lở… Mặt trời dường như đang lắc lư trên không trung. Loại vũ khí này phát ra sức nóng khủng khiếp, khiến đất động núi rung. Trong một vùng rộng lớn, động vật bị thiêu chết biến dạng, nước sông sôi sục, tôm cá đều bị luộc chết hết. Khi hoả tiễn bùng nổ, tiếng vang như sấm sét, thiêu đốt quân địch như những thân cây cháy khô.”
Mô tả về cuộc chiến thứ hai càng khiến người ta rùng mình: “Gurkha cưỡi trên chiếc Vimana tốc độ cao, phóng một quả hoả tiễn về phía ba thành phố của quân địch. Quả hoả tiễn này dường như mang sức mạnh của cả vũ trụ, độ sáng của nó giống như hàng vạn mặt trời, cột khói lửa cuộn trào lên bầu trời, vô cùng tráng lệ… Thi thể bị thiêu cháy đến mức không thể nhận dạng, tóc và móng tay bong tróc, đồ gốm sứ nứt vỡ, chim chóc đang bay bị nhiệt độ cao thiêu đốt. Để thoát khỏi cái chết, các chiến binh đã nhảy xuống sông để tẩy rửa bản thân và vũ khí.”
Những mô tả về hai cuộc chiến tranh hạt nhân thời tiền sử này khiến người hiện đại vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ. Mang theo những nghi vấn này, các nhà khảo cổ học hiện đại đã phát hiện ra nhiều phế tích đã biến thành đất cháy ở thượng nguồn sông Hằng, nơi xảy ra các cuộc chiến nói trên. Trong những phế tích này, những tảng đá lớn bị dính chặt vào nhau, chứng tỏ chúng đã từng bị nung chảy bởi nhiệt độ cao. Chúng ta biết rằng, để làm tan chảy đá, nhiệt độ tối thiểu phải đạt tới 1.800 độ C. Những đám cháy thông thường hoàn toàn không thể đạt tới nhiệt độ này, chỉ có vụ nổ hạt nhân như bom nguyên tử mới có thể tạo ra nhiệt độ cao như vậy!
Ngoài ra, trong khu rừng nguyên sinh Deccan, người ta cũng phát hiện ra nhiều phế tích đất cháy. Các bức tường thành của phế tích đã bị thủy tinh hóa, trơn bóng như thủy tinh. Bề mặt của đồ nội thất bằng đá bên trong các tòa nhà cũng bị thủy tinh hóa. Đây đều là kết quả của việc đá bị tan chảy trong nhiệt độ cao tức thời rồi nguội đi. Ngoài Ấn Độ, tại Babylon cổ đại, sa mạc Sahara, sa mạc Gobi ở Mông Cổ… người ta đều phát hiện ra những phế tích thủy tinh hóa tương tự. Những “viên đá thủy tinh” trong phế tích giống hệt với “đá thủy tinh” tại các bãi thử hạt nhân ngày nay. Ngoại trừ chiến tranh hạt nhân thời tiền sử, hiện tại không có lý do nào hợp lý hơn để giải thích những hiện tượng này. Không thể loại trừ khả năng nền văn minh của một số nhân loại thời tiền sử đã bị hủy diệt bởi chiến tranh hạt nhân.
Về sự hủy diệt của văn minh nhân loại tiền sử, còn có truyền thuyết về lục địa Atlantis chìm xuống đáy biển 10.000 năm trước do triết gia Hy Lạp cổ đại Plato ghi lại, và còn rất nhiều ghi chép tương tự khác. Khảo cổ học hiện đại cũng liên tục phát hiện ra bằng chứng về sự tồn tại và hủy diệt của văn minh nhân loại tiền sử, không ngừng tác động vào quan niệm tư tưởng của con người hiện đại và gây chấn động thế giới. Người ta cho rằng lịch sử và văn minh của nhân loại là lặp lại, là tuần hoàn theo chu kỳ. Trong lịch sử viễn cổ của nhân loại, đã từng xảy ra nhiều thảm họa mang tính hủy diệt, như: đại hồng thủy, đảo cực địa từ, biến động mảng kiến tạo trái đất, va chạm với hành tinh khác, chiến tranh hạt nhân, v.v.
Sau mỗi lần xảy ra thảm họa mang tính hủy diệt, toàn bộ nền văn minh nhân loại đều bị hủy diệt, chỉ có một số rất ít người sống sót. Họ lại bắt đầu sinh sôi nảy nở ra nhân loại mới, bắt đầu một nền văn minh mới.
Mỗi khi xảy ra thảm họa trên diện rộng, gần như toàn bộ nền văn minh và công cụ sản xuất của nhân loại đều bị phá hủy. Số ít nhân loại sống sót buộc phải quay trở lại trạng thái nguyên thủy, bắt đầu sống trong hang động, mặc vỏ cây, chế tạo công cụ bằng đá, và phát triển lại nền văn minh mới. Nhưng hầu như kiếp nạn nào cũng để lại một chút dấu tích của văn minh tiền sử. Đôi khi số lượng người sống sót nhiều hơn thì văn minh tiền sử để lại cũng nhiều hơn. Ví dụ như Chu Dịch, Bát Quái, Hà Đồ, Lạc Thư… lưu lại từ thời viễn cổ. Trí tuệ của con người hiện nay hoàn toàn không thể nghiên cứu thấu đáo, chúng trở thành những bí ẩn không lời giải, tất cả đều là di sản từ thời tiền sử xa xôi. Còn có các câu chuyện thần thoại và truyền thuyết lưu truyền đến ngày nay, rất nhiều trong số đó được truyền từ thời kỳ tiền sử xa xưa qua từng thế hệ đến tận bây giờ. Vì vậy, đây đều là những tư liệu lịch sử tiền sử quý giá.
Theo ĐKN



















































































































































































