Vào thời nhà Thanh, một thư sinh nghèo nhưng chăm chỉ học hành cuối cùng đã đỗ kỳ thi Hương, sắp sửa lên kinh thành dự thi Hội và thi Đình. Tuy nhiên, khi anh chuẩn bị lai kinh ứng thí, một thầy tướng số trong làng đã báo rằng anh sẽ chết vào mùa thu, tháng tám âm lịch. Dự đoán này khiến anh lo lắng suốt ngày đêm.
Một ngày nọ, một số bạn học của chàng thư sinh mời anh cùng đi đến kinh đô ứng thí. Thư sinh nghèo đáp: “Tôi không muốn giấu các bạn, nhưng thầy tướng số đã tiên đoán rằng tôi sẽ chết sớm, vì vậy tôi đi thi cũng chỉ là vô ích thôi”.
Lúc này, người bạn tên Vương Thắng đã khích lệ anh đi cùng và nói: “Cậu không thể tin lời thầy bói. Nếu cậu lo ngại không có tiền để đi, tôi sẽ lo liệu mọi chi phí”.
Vương Thắng xuất thân giàu có, là người chính trực rộng lượng, ngay lập tức đưa cho thư sinh một thỏi bạc mười lượng và nói: “Hãy dùng số tiền này để lo cho gia đình cậu, tôi sẽ lo liệu hành lý và tất cả các chi phí cho chuyến đi. Đừng lo lắng”.
Cảm động trước tấm lòng của Vương Thắng, chàng thư sinh đã đồng ý đi cùng. Khi ấy là những ngày đầu tiên của mùa thu.
Thầy tướng thứ hai lại tiên đoán cái chết của chàng thư sinh
Khi đến Kim Lăng (tên cũ của Nam Kinh), đoàn người nghe nói rằng ở đền Thành Ân địa phương có một thầy tướng rất giỏi xem tướng mạo và tiên đoán chính xác số mệnh của con người. Bảy chàng trai cùng nhau đến ngôi đền gặp thầy tướng để thỉnh giáo về kết quả khoa cử của họ. Đầu tiên, thầy xem tướng cho sáu người bạn của chàng thư sinh. Ông phán đoán tình hình hiện tại của họ và gia đình họ rất chuẩn xác. Về kỳ thi sắp tới, thầy tướng nói rằng chỉ có một người trong số họ sẽ được vào danh sách phụ, còn lại đều thi trượt.
Khi đến lượt thư sinh nọ, thầy tướng hỏi: “Cậu đến từ đâu? Quê cậu cách đây bao xa?”
Bấm ngón tay, thầy tướng nói: “Cậu nên trở về nhà trước khi quá muộn!”
Mọi người đều sửng sốt. Thầy tướng giải thích: “Người này có khuôn mặt xương xẩu, tinh thần yếu đuối, và các đường nét đại hung đã xuất hiện trên trán. Hãy quay về ngay, nếu không cậu sẽ chết dọc đường!”
Cả bảy người đều hoảng hốt và hỏi: “Thầy có thể xem kỹ hơn và xem có cách nào cứu cậu ấy không?”
Thầy tướng trả lời: “Không thể cứu cậu ta khỏi đại nạn này, trừ khi cậu ấy làm một việc thiện thầm lặng. Nhưng bây giờ cái chết đã cận kề, cậu ấy có thể làm gì được? Nếu cậu ấy còn sống sau sáu ngày kể từ hôm nay, tôi sẽ ngừng xem tướng”. Trước câu trả lời kiên quyết của thầy tướng, họ đành ra về trong buồn bã.
Trở lại quán trọ, thư sinh nói với các bạn: “Thầy tướng hôm nay đã nói giống như thầy tướng ở làng, và tôi nghĩ lời tiên đoán này sẽ thành sự thật. Mọi người đều chết. Cái chết không làm tôi sợ, nhưng nếu tôi chết ở đây, tôi sợ sẽ làm phiền các bạn, nên tôi muốn về nhà càng nhanh càng tốt”. Mọi người không còn lựa chọn nào khác.
Vương Thắng thương cảm và thuê một chiếc thuyền cho chàng thư sinh, chuẩn bị quần áo và đưa cho anh một thỏi bạc để đề phòng bất trắc. Thư sinh nghèo cảm kích tấm lòng của bạn, cười nói: “Tôi không dám từ chối sự giúp đỡ của anh cho hậu sự của tôi. Nếu quả thực có linh hồn sau khi chết, tôi sẽ không quên cầu nguyện cho anh trong thế giới bên kia, để cảm ơn lòng tốt của anh”. Sau đó, thư sinh từ biệt mọi người, lên thuyền rời đi.
Cuộc gặp gỡ bất ngờ bên bờ sông

Thuyền đi được hơn mười dặm trên sông thì bất ngờ một cơn gió nổi lên, khiến thuyền không thể nào tiến lên được. Gió thổi càng lúc càng mạnh ròng rã suốt bốn ngày. Thư sinh nghĩ rằng năm ngày sắp trôi qua và anh sẽ chết mà không thể về nhà. Tuyệt vọng, anh xuống thuyền đi dạo bên bờ sông, chờ đợi cái chết.
Anh đang đi dạo trên bờ sông vắng vẻ thì đột nhiên, một phụ nữ mang thai xuất hiện, khóc lóc thảm thiết, tay trái bế một đứa bé, tay phải dắt hai đứa nhỏ. Cô đi qua chàng thư sinh mà không nhìn anh, như thể anh là người vô hình.
Chàng thư sinh cảm thấy lo lắng. Bờ sông vắng vẻ không người, vậy người phụ nữ có thai này muốn đi đâu? Cô có vẻ rất tuyệt vọng và đau buồn, chắc hẳn có chuyện gì đang xảy ra. Càng nghĩ, anh càng cảm thấy không yên tâm. Anh quay lại và đuổi kịp cô gái, nhưng cô chẳng nói chẳng rằng. Anh chỉ còn cách đi theo cô.
Cô gái quay lại và mắng anh: “Anh làm gì mà theo sau đàn bà con gái? Anh có biết lễ giáo là gì không?”
Thư sinh nói: “Chúng ta không quen biết nhau, nhưng có vẻ như cô đang gặp khó khăn. Nếu cô nói cho tôi biết, tôi có thể giúp đỡ”.
Trước sự chân thành của chàng thư sinh, cô gái cuối cùng đã chia sẻ nỗi đau của mình: “Tôi lấy chồng là một người bán thịt thô bạo, thường xuyên đánh đập tôi không cần lý do, đến mức suýt chút nữa là giết tôi. Chúng tôi có hai con lợn ở nhà, sáng nay chồng tôi đi chợ sớm, trước khi đi đã nói: ‘Nếu ai đến mua, cô phải lấy mười lượng bạc’. Vào giữa trưa, một người đến mua lợn với một thỏi bạc mười lượng. Tôi sợ bạc là giả, nên đã dẫn anh ta đến cửa hàng bạc để kiểm tra. Người bán bạc nói đó là bạc thật. Nhưng người mua bất ngờ đổi ý và cho rằng giá lợn quá cao, rồi lấy lại thỏi bạc mười lượng và từ chối mua. Sau đó, anh ta lại quay lại và nói rằng sẽ mua lợn với giá ban đầu. Một người hàng xóm ở phía tây đến nhà tôi, nhìn thấy số bạc và bảo tôi rằng đó là đồng! Tôi vội vã chạy ra ngoài để tìm người mua lợn, nhưng vô ích. Tôi lại quay lại cửa hàng bạc để kiểm tra, và nhiều cửa hàng cũng đều nói giống vậy, thỏi bạc ấy là đồng. Tôi hoảng sợ. Khi chồng tôi về và biết chuyện này, tôi chắc chắn sẽ bị đánh chết. Tôi kiểu gì cũng chết, nhưng nếu phải chết vì roi rọt, tôi thà chết dưới nước còn hơn”.
Khi thư sinh nghèo nghe xong, anh động lòng thương xót. Anh cầm số bạc của người phụ nữ và nhận ra đó đúng là đồng. Lúc này, anh nhớ tới thỏi bạc mà Vương Thắng đã đưa cho mình, và tự nghĩ rằng mình sắp chết rồi, còn giữ bạc làm gì? Anh nhanh tay đổi thỏi bạc của cô gái với thỏi bạc của mình.
“Chị ơi, bạc của chị là thật đấy, ai nói đó là đồng vậy?” Thư sinh nói.
Cô gái tức giận đáp: “Nhiều cửa hàng bạc đã nói đó là đồng, sao anh lại lừa tôi?”
Thư sinh nói: “Đây là bạc thật! Có thể các cửa hàng bạc đã lừa phụ nữ. Nếu chị đi với tôi, họ sẽ không dám nói đó là đồng. Nếu đúng là đồng, chị có thể quyết định làm gì tiếp theo”. Nghe vậy, cô gái theo anh đi đến nhiều cửa hàng để kiểm tra, tất cả đều xác nhận đó là bạc thật.
Cô gái vui mừng nói: “May là tôi gặp anh, nếu không tôi đã phạm một sai lầm lớn!” Cô nhận số bạc, cảm ơn anh và rời đi.
Giấc mơ của thư sinh báo trước vận mệnh thay đổi
Trời sáng, thư sinh bước vào đại sảnh để cầu nguyện và nhận ra quả thật có một bức tượng Quan Đế ở đây. (Ảnh minh hoạ)
Màn đêm buông xuống, thư sinh vội vã trở về thuyền. Anh đi hơn một dặm vẫn không tìm được thuyền. Trong lúc hoang mang, anh nhìn thấy một ngôi nhà trước mặt. Tiến lại gần, thì ra là một ngôi miếu hoang. Anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tìm một góc trú dưới hiên miếu và chờ đợi bình minh. Anh tự nghĩ: “Nơi hoang vu này, vào đêm tối này, nếu lũ cáo, sói hay ma quỷ đến tấn công mình, thì cũng là giờ mình chết”. Anh vừa ngồi xuống thì mệt quá liền thiếp đi.
Khi đang ngủ, thư sinh nghe thấy tiếng gõ cồng. Mở mắt ra, anh thấy trong miếu sáng rực, các võ sĩ đứng thành hai hàng và một người trông như là vua ngồi ở giữa, dường như là Quan Thánh Đế Quân (chú thích: Quan Công sau khi chết thì hiển thánh, được đời sau thờ phụng là Quan Đế). Đột nhiên, chàng thư sinh nghe thấy một giọng nói vang lên, Quan Đế phán: “Một người đã cứu sống năm mạng người bên bờ sông hôm nay, chúng ta nên tìm người này và ban phước cho anh ta”.
Một viên quan mặc áo tím, cầm một cuộn giấy tiến lên, tâu rằng: “Thần vừa nhận được trình tấu từ Thần Thổ địa, rằng đó là thư sinh đến từ huyện X”.
Quan Đế truyền lệnh kiểm tra vận mệnh của thư sinh, xem anh có nằm trong danh sách thi tuyển quan lại năm nay không.
Một viên quan mặc áo thêu tiến lên tâu rằng: “Mệnh của người này đã hết, anh ta lẽ ra phải chết vì bị một bức tường đổ trúng người đêm nay, dưới hiên của ngôi miếu này”.
Quan Đế nói: “Nếu vậy, làm sao có thể khuyến khích người ta làm việc thiện? Hãy sửa lại sổ phúc thọ của anh ta. Văn Xương Đế Quân đã phê chuẩn hôm qua, người đứng đầu kỳ thi năm nay ở khu vực Nam Dương Tử đã bị phế truất vì trêu ghẹo một nữ tỳ, hãy để thư sinh này thế chỗ hắn ta!”
Một viên quan đứng bên cạnh thêm vào: “Số bạc của thư sinh này là món quà của Vương Thắng. Vương Thắng đã góp phần làm việc thiện bằng sự hào phóng và chính trực, cũng nên được ban thưởng”.
Quan Đế phán: “Tốt lắm!” Ngài ra lệnh kiểm tra lại sổ vận mệnh.
Viên quan áo thêu tiến lên hỏi: “Một thí sinh sẽ đạt vị trí thứ năm mươi ba vừa bị loại vì loạn ngôn. Văn Xương Đế Quân chưa chọn người thay thế, có thể thay anh ta bằng Vương Thắng chăng?” Quan Đế chuẩn tấu.
Thư sinh đang lắng nghe cuộc trò chuyện thì bỗng nhiên ai đó la lên: “Ra ngoài! Ra ngoài!”. Anh hoảng hốt tỉnh dậy, vẫn còn nằm co ro dưới mái hiên, xung quanh là bóng tối. Thư sinh nghe tiếng bùn rơi từ bức tường, bèn đứng dậy và chạy nhanh ra ngoài. Khi vừa rời khỏi mái hiên, bức tường đổ sụp ngay tại chỗ anh ngồi. Anh đứng đó dưới ánh trăng, chờ đợi bình minh đến.
Trời sáng, thư sinh bước vào đại sảnh để cầu nguyện và nhận ra quả thật có một bức tượng Quan Đế ở đây. Anh quỳ xuống bái lạy rồi mới rời đi, tìm đường trở lại thuyền. Lúc bấy giờ người lái đò cũng chuẩn bị trở lại Kim Lăng, thư sinh đã lên thuyền và bình an trở về kinh thành.
Cuộc hội ngộ đầy ý vị
Khi thư sinh về đến quán trọ, sáu người bạn của anh đều ngạc nhiên và vui mừng.
Thư sinh nói: “Gió trên sông mạnh quá, thuyền không thể nào đi tiếp được, tôi đã quay lại vì thời gian năm ngày đã trôi qua”.
Mọi người hỏi anh: “Có tai nạn gì xảy ra trong năm ngày qua không?”
Thư sinh không nhắc đến việc mình đã âm thầm cứu giúp mẹ con người phụ nữ, mà chỉ đơn giản nói: “Có, đã xảy ra. Hôm qua, buồn quá, tôi xuống thuyền đi dạo, và khi tôi đi được một quãng xa thì bị lạc vào lúc trời nhá nhem tối. Tôi đã vài lần vấp phải lau sậy bên bờ và suýt rơi xuống sông. May mắn là người chủ thuyền đã mang đèn lồng đến tìm tôi, và tôi đã quay lại thuyền. Nhưng tôi đã mất số tiền giấu trong tay áo”.
Vương Thắng cười nói: “Tục ngữ có câu, đại nạn không chết tất có hậu phúc. Việc bị lạc bên bờ sông là điềm báo rằng cậu sẽ thi đỗ cao trong kỳ thi!”
Vương Thắng đã mua rượu để ăn mừng thư sinh trở về.
Ngày hôm sau, những người ở lại quán trọ đã đến gặp thầy tướng để thông báo rằng ông đã tiên đoán sai. Thư sinh không muốn đi, nhưng mọi người đã kéo anh theo. Khi đến nơi, thầy tướng đang nói chuyện với ai đó, ngẩng đầu lên nhìn thấy chàng thư sinh thì kinh ngạc: “Không phải là người mà tôi đã nói sẽ chết trong năm ngày sao?” Mọi người đáp lại đồng thanh: “Đúng vậy! Hôm nay là ngày thứ bảy và anh ấy vẫn còn sống, vậy ông nói sao?”
Thầy tướng nói: “Anh ấy sẽ không chết. Chỉ mới vài ngày trôi qua mà sắc diện của anh ta đã thay đổi và trông thật khỏe mạnh. Chắc chắn anh ấy đã làm một việc thiện phi thường và cứu được nhiều mạng sống, vì vậy số mệnh của anh ta đã thay đổi”.
Thư sinh cười nói: “Lời của ông thật vô lý, tôi không có tiền, làm sao tôi có thể cứu người khác?”
Thầy tướng đáp: “Đừng dối tôi, tôi không phải đã từng nói rằng người ta không thể tự cứu mình nếu không âm thầm làm việc thiện sao? Hôm nay, anh có đức hạnh rõ ràng, và trong kỳ thi sắp tới, anh chắc chắn sẽ đỗ đầu, năm sau anh sẽ được nhận vào Viện Hàn lâm, và sau đó anh sẽ trở thành một quan chức cấp cao và sống đến tám mươi tuổi”.
Thầy tướng tiếp tục: “Đây không phải là ngẫu nhiên”. Chính lúc này, thầy tướng giải thích lý do tại sao lại như vậy. “Khoảng một tháng rưỡi trước, một thư sinh đến nhờ tôi xem tướng, khuôn mặt của cậu ấy sáng sủa đến nỗi tôi kết luận cậu ấy sẽ là người thi đỗ cao nhất trong kỳ thi này. Nhưng hôm qua, cậu ấy quay lại với những dấu hiệu xui xẻo trên trán và hào quang của cậu ấy đột nhiên tắt lịm, chắc chắn cậu ấy đã làm điều gì sai trái và vận may đã bị hủy bỏ. Thật bất ngờ, chính anh sẽ thay thế cậu ta”.
Và thầy tướng chỉ vào Vương Thắng đang đứng bên cạnh, nói: “Người này cũng có đức hạnh trên khuôn mặt, và chắc chắn sẽ thi đỗ cùng với anh”.
Vương Thắng cười nói: “Tôi không biết bạn tôi đã làm gì. Còn tôi, tôi có thể làm việc thiện thế nào được?” Thầy tướng đáp: “Việc làm thiện mà không mong cầu lợi ích cho bản thân, đó gọi là âm thầm làm việc thiện!” Cả đám đông cười ồ, nghĩ rằng thầy tướng đang tìm lý do để biện minh cho sai lầm của mình.
Thư sinh cười nói: “Mỗi người đều nói và nghe theo điều mình muốn, không ai cần phải coi đó là chuyện nghiêm túc, đừng chần chừ nữa, hãy quay về quán trọ đi”.
Trở lại quán trọ, thư sinh nói riêng với Vương Thắng: “Thầy tướng đó thật là thần cơ diệu toán! Những gì ông ta nói hoàn toàn chính xác! Anh chắc chắn sẽ đạt vị trí thứ năm mươi ba trong kỳ thi năm nay!”
Quả thật, khi Vương Thắng nhìn thấy thư sinh trở về, anh ngạc nhiên khi thấy bạn mình tươi tắn như vậy. Nghe những lời của thầy tướng, anh hiểu rằng chàng thư sinh đã lấy số tiền mà anh cho để cứu mạng một người, và đã giả vờ là mình làm mất. Khi Vương Thắng hỏi chuyện gì đã xảy ra, thư sinh kể cho anh nghe toàn bộ câu chuyện.
Thư sinh nói: “Nếu không có mười lạng bạc mà anh cho tôi, tôi đã không thể làm gì. Hôm nay, tôi được các vị Thần ban phúc nhờ vào lòng tốt của anh đấy”.
Vương Thắng ngạc nhiên: “Anh thật hào phóng, và tôi phải cảm ơn anh mới đúng. Tài tiên đoán của thầy tướng này thật tuyệt vời!”
Trong kỳ thi năm đó, chàng thư sinh đã đỗ đầu bảng, và Vương Thắng cũng đạt vị trí thứ năm mươi ba. Sang năm sau, cả hai đều được nhận vào Hàn lâm viện. Mọi việc diễn ra đúng như lời dự đoán của thầy tướng ở đền Thành Ân.
Số phận và thọ mệnh của một người được định đoạt bởi các vị Thần. Chúng được định đoạt như thế nào? Tùy vào những hành động tốt và xấu của người đó. Phúc lộc và thọ mệnh của những người làm việc thiện có thể tăng lên. Còn những người làm việc xấu có thể bị giảm sút trong nháy mắt. Chìa khóa của cánh cửa hạnh phúc hay tai họa nằm trong tay chúng ta, và chúng ta có thể quyết định mở cánh cửa nào.
Theo Vision Times-Thanh Ngọc biên dịch