Lăng mộ thứ 13 của nhà Minh chưa từng bị trộm, nguyên nhân đằng sau đã được tiết lộ; tìm kiếm huyệt rồng, huyệt rồng trong Tử Cấm Thành nằm ở đâu? Trảm long mạch có hữu dụng không?
Hôm nay chúng ta sẽ nói về Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành hiện tại cũng gọi là cố cung, được xây dựng dưới thời hoàng đế Vĩnh Lạc Chu Đệ của nhà Minh, thời gian xây dựng mất 15 năm. Nhà Minh nguyên là định đô ở Nam Kinh, sau khi Chu Đệ lên ngôi, ông muốn chuyển về Bắc Kinh, nơi ông sống khi còn là vua chư hầu. Nhưng liệu Bắc Kinh có thích hợp làm thủ đô của nhà Minh? Điều này còn phải xem có thể tìm được long mạch thích hợp hay không.
Hai sự kiện trảm long mạch
Trước đây chúng tôi đã giới thiệu trong một tập rằng Trung Quốc có 24 triều đại, mỗi triều đại đều có long mạch riêng, các đế vương đều vô cùng coi trọng long mạch của mình. Khi các triều đại cải hoán, xuất hiện đủ chuyện trảm long mạch, bảo vệ long mạch vô cùng kịch tính.
Sau khi nhà Minh diệt nhà Nguyên, các lão nhân ở lại hoàng thành đã kể lại câu chuyện tiền triều về trảm long mạch. Họ nói rằng núi Vạn Tuế ở hồ Thái Dịch, nay là Quỳnh Đảo ở Bắc Hải, không phải là một hòn đảo tự nhiên, mà được “di chuyển” một cách nhân tạo từ cách xa hàng ngàn dặm. Năm đó, khi người Mông Cổ mới nổi lên, Đại Kim, người thống trị phương Bắc, phát hiện có một ngọn núi nằm trên sa mạc nơi người Mông Cổ tụ cư, trong núi ẩn ẩn hiện hiện xuất ra “khí vương giả”. Đại Kim cảm thấy rằng điều này sẽ tạo thành uy hiếp đối với sự thống trị của mình, bèn tìm đến người Mông Cổ và nói, chúng tôi có thể tặng các bạn một lễ vật để đổi lấy đất bùn trên ngọn núi đó, có được không? Người Mông Cổ lúc bấy giờ chưa hiểu được học vấn uyên thâm về phong thủy, nên vui vẻ đồng ý. Sau khi giao dịch xong, nhà Kim phái rất nhiều người nhanh chóng san phẳng ngọn núi, đất bùn đào ra được di chuyển hàng ngàn dặm gửi về cố cung ở Bắc Kinh, đắp thành một hòn đảo nhỏ trong hồ, và một cung điện được xây dựng trên đó. (Theo “Tứ khố toàn thư – Khâm định nhật hạ cựu văn khảo”)
Đáng tiếc, không rõ là người Mông Cổ vận thế quá cường, hay là “long mạch” đã trảm nhầm chỗ, mà không lâu sau, Đại Kim bị tiêu diệt bởi kẻ thù cũ Đại Tống liên thủ với người láng giềng Mông Cổ.
Chuyển mắt đến cuối thời nhà Minh, vở kịch trảm long mạch lại được thượng diễn.
Khi đó, tộc Nữ Chân hưng khởi ở vùng Đông Bắc. Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập quốc, quốc hiệu Đại Kim, trong lịch sử được gọi là hậu Kim. Hoàng đế Vạn Lịch của nhà Minh đứng ngồi không yên, ngoài việc phái đại quân đi thảo phạt, ông còn tàn nhẫn phá hủy lăng mộ của Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả, trảm đứt long mạch của nhà hậu Kim. Đáng tiếc người tính không bằng trời tính, điều Vạn Lịch không biết là, nhà “Kim” này không phải là nhà “Kim” xưa. Họ tộc của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Ái Tân Giác La, không phải là người một nhà với gia tộc Hoàn Nhan của nhà Đại Kim năm đó.
Long mạch của triều đại Hậu Kim nằm ở Vĩnh Lăng, quận Tân Tân, tỉnh Liêu Ninh. Núi Khải Vận nằm ở Vĩnh Lăng, bên trái có rồng xanh, bên phải có hổ trắng, phía trước có ba dòng sông chảy qua, hình thành cục diện “tam thủy nhập khố”, phong thủy tuyệt đẹp. Điều kỳ diệu hơn nữa là 12 ngọn nhấp nhô của núi Khải Vận vừa khớp đối ứng với 12 vị hoàng đế của nhà Thanh, như thể đã được dự ngôn từ hàng ngàn năm trước rằng gia tộc Ái Tân Giác La sẽ nhập chủ Trung Nguyên.
Về phần nhà Minh, dù trảm nhầm long mạch, nhưng việc quật mộ tổ tiên của người ta xét cho cùng là một sự tình vô cùng trái đạo đức, người ta đều nói sẽ phải chịu báo ứng. Quả nhiên, báo ứng đến rất nhanh. Năm Sùng Trinh thứ tám, quân nông dân tác loạn, sau khi Trương Hiến Trung công hãm Phụng Dương, có gì học nấy, hắn cũng học theo phá hủy mộ tổ gia tộc Chu của nhà Minh. Sùng Trinh nghe tin, mặc áo trắng khóc lóc thảm thiết, sai người đến miếu tổ tông tạ tội (theo “Minh sử đạo tặc liệt truyền”). Thật là kỳ sỉ đại nhục! Có thù tất báo, tám năm sau, Sùng Trinh nhờ người tiến hành điều tra bí mật, cuối cùng tìm được mộ tổ của thủ lĩnh quân nông dân Lý Tự Thành, lập tức phái người đi tiêu hủy.
Đây là sự kiện “ba lần trảm long mạch” nổi tiếng vào cuối thời nhà Minh. Khi ba nhát đao này chém xuống, Minh triều và Lý Tử Thành lưỡng bại câu thương, nhà Minh diệt vong, Lý Tự Thành cũng không đoạt được thiên hạ. Nhà hậu Kim ở ngoài biên giới, lúc này đã được đổi tên thành Đại Thanh, nhẹ nhàng tiến vào bờ cõi làm chủ Trung Nguyên.
Đi tìm long mạch
Những sự tình đẫm máu như vậy trong lịch sử có rất nhiều. Vậy thì tại sao các hoàng đế lại coi trọng long mạch như vậy, một ngọn núi nho nhỏ làm sao có thể liên quan đến vận mệnh của một triều đại? Điều này phải bắt đầu nói từ vũ trụ quan của người xưa.
Người Trung Quốc cổ đại tin vào “Thiên nhân hợp nhất”, tin rằng thân thể người là một vũ trụ nhỏ, và là nhất thể với vũ trụ rộng lớn bên ngoài, chính là con người có thể câu thông với “Thiên”. Một khi câu thông, nhân thể có thể tiếp thu khí vũ trụ, theo thuật ngữ hiện tại mà giảng, chính là nó có thể không ngừng tiếp thụ năng lượng có nguồn gốc uyên nguyên từ vũ trụ.
Tương tự như vậy, đại địa và “Thiên” cũng có thể câu thông với nhau. Cây cầu để câu thông giữa trời và đất là núi Côn Luân. Núi Côn Luân có thể dẫn nhập “khí” của vũ trụ từ trên Thiên thượng và vận chuyển nó đến nhiều nơi khác nhau, đường dẫn vận khí này chính là “long mạch”. Bằng cách tìm đến những “long mạch” này, người đó liền có thể câu thông với “Thiên”, có được năng lượng trong vũ trụ, đồng thời cũng nhận được sự phù hộ của Thiên thượng.
Ngày xưa, các hoàng đế tin rằng họ là sứ giả của “Thiên thượng”, tự xưng mình là “thiên tử” – con trời, vì vậy việc các hoàng đế có thể hay không câu thông với “Thiên thượng” là vô cùng quan trọng. “Long mạch” chính là cầu nối để họ có thể câu thông với Trời. Đây chính là lý do vì sao mỗi triều đại đều rất coi trọng “long mạch”.
Có ba long mạch lớn chảy xuống từ dãy núi Côn Luân là Bắc Cán Long, Trung Cán Long và Nam Cán Long. Trong đó, Bắc Cán Long đi qua Thanh Hải, Ninh Hạ, dọc theo dãy núi Thái Hành xuôi về phía tây, một nhánh đi qua dãy núi Hằng Sơn và dãy núi Yến Sơn, cuối cùng kết thúc tại núi Thiên Thọ phía tây bắc Bắc Kinh. Long mạch mà Chu Đệ thỉnh cao nhân tìm được cho mình chính là núi Thiên Thọ. Chu Đệ và 12 vị hoàng đế nhà Minh sau này đều được chôn cất dưới chân núi, đây chính là 13 lăng mộ của nhà Minh.
Trong lịch sử, rất nhiều lăng mộ của các hoàng đế đều đã bị đào trộm, nhưng riêng 13 lăng mộ nhà Minh vẫn luôn bình an vô sự. Điều hiếm thấy là vào thời nhà Thanh, mặc dù luôn có người giương cao cờ xí, tuyên bố muốn “phản Thanh phục Minh”, nhưng nhà Thanh lại không hề trảm đứt long mạch của nhà Minh hay đào bới lăng mộ của bất kỳ hoàng đế nhà Minh nào, thay vào đó họ phái người đến canh giữ 13 lăng mộ nhà Minh, còn thỉnh thoảng tu sửa, vô cùng hậu đãi. Thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc, ngay cả lăng mộ của thái hậu Từ Hi cũng nhanh chóng bị cướp phá, còn 13 lăng nhà Minh thì trừ Minh Tư Lăng của hoàng đế Sùng Trinh bị người ta xáo trộn một chút, những lăng mộ còn lại của nhà Minh đều hoàn toàn vô tổn, phi thường thần kỳ. Từ góc độ này mà nói, việc tìm được long mạch này quả thực rất tốt, ít nhất nó cũng cho phép các hoàng đế được chôn cất ở đây thực sự được an nghỉ.
“Long huyệt” nằm ở đâu?
Tuy nhiên, việc tìm kiếm long mạch không chỉ để làm nơi chôn cất, mà quan trọng hơn là dẫn khí long mạch vào đô thành, như vậy thì hoàng đế sống ở kinh đô mới có thể nhận được sự bảo hộ của Thiên thượng, hoàng triều mới có thể trường tồn. Nhưng núi Thiên Thọ cách thành Bắc Kinh khá xa, thành Bắc Kinh lại là một bình nguyên rộng lớn ngựa phi băng băng, ngay cả một ngọn núi nho nhỏ cũng không có, làm sao có thể dẫn khí long mạch tới đây?
Các cao nhân bên thân Chu Đệ nhanh chóng nghĩ ra biện pháp, xây dựng một ngọn núi nhân tạo để dẫn khí long mạch từ lòng đất xuất ra. Đây chính là núi Vạn Tuế nằm ở phía bắc Tử Cấm Thành, bên ngoài Cổng Huyền Vũ, nay là công viên Cảnh Sơn. Vì là ngọn núi nhân tạo, nên núi Vạn Tuế được xây dựng chiểu theo nguyên lý ngũ hành, đắp thành năm đỉnh núi. Đất trên núi đến từ đâu? Chẳng lẽ nó được vận chuyển từ nơi xa ngàn dặm? Không cần, nếu đào một con sông bên ngoài hoàng thành, đất đào ra có thể tạo thành núi.
Vậy khí long mạch sau khi dẫn ra sẽ đặt tại đâu? Cũng giống như chúng ta nối tiếp đường ống nước, thì cuối cùng phải có bồn để hứng nước phải không? Điều này không thể không nói đến “long huyệt”.
Học thuyết âm dương cổ xưa của Trung Quốc tin rằng vũ trụ thời nguyên sơ là một màn hỗn độn, đâu đâu cũng đều là “khí”, chính là thuở hỗn nguyên. Những “khí” này được gọi là “nguyên khí”. Về sau, từ trong “nguyên khí” dần dần phân ly thành hai khí âm dương. Dương cương, Âm nhu; Dương động, Âm tĩnh. Dương khí nhẹ bay lên tạo thành Thiên, hóa ra bầu trời đầy sao; Âm khí nặng đục, trầm xuống tạo thành Địa, hình thành các loại dãy núi trên mặt đất.
Nơi âm khí và dương khí gặp nhau trong giao hội trong long mạch chính là nơi tọa lạc của “long huyệt”. Nơi hai khí âm dương giao cảm với nhau, sinh mệnh sẽ được sản sinh từ trong đó. Do đó nơi sở tại của “long huyệt” sẽ luôn hiển hiện sinh cơ bừng bừng. Đây cũng chính là nguyên nhân “long huyệt” quan trọng như vậy, vì nó là sinh cơ của một triều đại.
Vậy “long huyệt” đối ứng với núi Vạn Thọ ở đâu? Vương Tử Lâm, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Bảo tàng Cố Cung, cho biết, theo khát sát của ông, “long huyệt” của Tử Cấm Thành hẳn là đặt ở “điện Giao Thái” ở sân sau của hoàng cung, có ba lý do.
Trước hết, vị trí của “điện Giao Thái” tương đối ẩn mật. Phía trước có cung Càn Thanh, phía sau có cung Khôn Ninh, hai bên còn có sáu cung Đông Tây, cho nên nó toàn bộ đều được ẩn giấu ở giữa. “Long huyệt” nhấn mạnh chữ “ẩn”, không hiển sơn lộ thủy, càng ẩn mật càng tốt. Nếu “long huyệt” lồ lộ ra bên ngoài sẽ là một huyệt chết, không khởi tác dụng. Vị trí của “điện Giao Thái” phù hợp hơn với điều kiện “ẩn mật”.
Ngoài ra còn có sự ảo diệu bên trong cái tên. Hai chữ “Giao Thái” xuất phát từ quẻ Thái trong Bát Quái. Trong Kinh Dịch giải thích quẻ này như sau: “Thiên địa giao thái, âm dương hợp thể, vạn vật hữu tự vạn ý kỳ trung.” Nói một cách đơn giản, nó có nghĩa là nơi trời đất giao thông, âm dương tương hợp, vạn vật sinh trưởng, điều này phù hợp với điều kiện sản sinh “long huyệt”.
Chứng cứ cuối cùng và quan trọng nhất là gương Hiên Viên treo ở điện Giao Thái. Gương Hiên Viên là một quả cầu sáng lung linh được treo dưới giếng tảo Bàn Long trên đỉnh điện. Trong toàn bộ Tử Cấm Thành, chỉ có điện Giao Thái và điện Thái Hòa là có treo gương Hiên Viên. Điện Thái Hòa là nơi hoàng đế mỗi ngày thượng triều, và cũng là cung điện cao cấp nhất trong Tử Cấm Thành, gương Hiên Viên được treo ngay phía trên ngai vàng của hoàng đế. Nó dùng để làm gì? Nghe nói là được dùng để xác định thiên tử thật giả. Hoàng đế giả mà ngồi lên ngai vàng, quả cầu này sẽ rơi trúng đầu ông ta.
Không rõ có bao nhiêu người tin vào thuyết pháp này, nhưng Viên Thế Khải, người năm đó muốn đăng cơ làm hoàng đế, thực sự tin vào điều đó. Nghe nói Viên Thế Khải khi chuẩn bị đổi một chiếc ghế rồng mới, đó là một chiếc ghế lưng cao kiểu phương Tây. Tuy nhiên, khi đổi ghế rồng, Viên Thế Khải đột nhiên cảm thấy bất ổn, ông yêu cầu dịch chiếc ghế lùi lại ba mét để tránh quả cầu. Sau này Viên Thế Khải quả thực không được làm hoàng đế, gương Hiên Viên rốt cuộc có công năng thần kỳ nhận biết hoàng đế thật giả hay không, mọi người có thể tự đoán.
Sau này, khi Tử Cấm Thành trở thành bảo tàng, các nhân viên công tác đã tìm thấy chiếc ghế rồng nguyên lai đặt ở một góc, liền thay thế nó bằng chiếc ghế rồng kiểu phương Tây của Viên Thế Khải, chỉ là vị trí không thay đổi. Nghe nói hiện tại đến thăm quan cố cung, sẽ thấy gương Hiên Viên trong điện Thái Hòa tối cao và ngai vàng của hoàng đế vẫn đặt lệch nhau.
Lại nói, tại sao điện Giao Thái ẩn tàng trong thâm cung cũng có gương Hiên Viên, dù ở đây không có ngai vàng của hoàng đế. Công năng của gương Hiên Viên đặt ở đây là khác, vì nó đối ứng với ngôi sao Hiên Viên trên Thiên thượng chủ quản lôi vũ, Vương Tử Lâm cho rằng, điều này tượng trưng cho sự giao hội âm dương thiên địa, có nghĩa đây là nơi đây có “long huyệt”.
Nơi ở của Thiên Đế
Sau khi “long huyệt” tìm được rồi, địa điểm xây dựng cung điện cũng là được đặt định. Vậy cung điện chiểu theo quy tắc nào để xây dựng?
Như vừa đề cập, những đế vương cổ đại tin rằng bản thân họ là sứ giả của Thiên thượng, nên cung điện của họ sẽ được xây dựng mô phỏng theo cung điện trên Thiên thượng. Bạn thấy đấy, chữ “Tử” trong Tử Cấm Thành xuất phát từ chữ “Tử” trong “Tử Vi Viên” nơi Thiên Đế ngụ. Chiêm tinh học Trung Quốc cổ đại cho rằng Thiên Đế ngụ tại phương vị của sao Bắc Đẩu, nên sao Bắc Đẩu là trung tâm của Thiên thượng, tất cả các ngôi sao trên bầu trời đều quay xung quanh nó. Nếu quay vòng thì chẳng phải có trục xoay sao? Đây chính là “thiên trục”. Tuy nhiên, “thiên trục” này không thể nhìn thấy hay chạm vào được, mà chỉ là thứ trong khái niệm.
Bầu trời với sao Bắc Đẩu làm trung tâm được chia thành ba tòa thành là Thái Vi Viên, Tử Vi Viên và Thiên Thị Viên. Thái Vi Viên là nơi Thiên Đế đặt văn phòng, cũng là nơi cư ngụ của các quý tộc và đại thần. Tử Vi Viên là nơi ở của Thiên Đế và gia đình ngài. Thiên Thị Viên là khu chợ trên Thiên thượng và là nơi cư ngụ của bình dân bách tính. Bảo vệ xung quanh tam viên là 28 chòm sao Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ cai quản, chúng cùng nhau cấu thành vũ trụ trong tâm trí người cổ đại.
Trục trung tâm của Tử Cấm Thành
Vậy thì đối ứng đến nhân gian, cố cung được kiến tạo như thế nào? Bước đầu tiên chính là vẽ ra “trục trung tâm” dựa trên long huyệt. “Trục trung tâm” này tương ứng với “thiên trục” trên bầu trời. Cụ thể là, tại vị trí trung tâm của điện Giao Thái, vẽ một kinh tuyến theo hướng Bắc Nam. Sáu điện quan trọng nhất trong Tử Cấm Thành đều được xây dựng trên trục trung tâm này.
Sáu đại điện này được chia thành ba đại điện trước và sau, đối ứng với Thái Vi Viên và Tử Vi Viên trên bầu trời.
Ba điện phía trước là điện Thái Hòa, điện Trung Hòa và điện Bảo Hòa, tổ thành ngoại triều, là nơi hoàng đế và các quan đại thần bàn công việc, đồng thời cũng là nơi cử hành các nghi lễ lớn của quốc gia, đối ứng chính là Thái Vi Viên nơi Thiên Đế đặt văn phòng. Ba điện phía sau là cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn Ninh mà chúng tôi đã giới thiệu từ trước, gọi là nội điện, đối ứng là cung Tử Vi nơi Thiên Đế và các gia đình ngài cư ngụ. Thiên Thị Viên không có kiến trúc đối ứng trong Tử Cấm Thành, nhưng vào thời nhà Minh, có một khu chợ bên ngoài cổng Huyền Vũ, mở chợ vào ngày mồng 4 hàng tháng, có thể tìm thấy đủ loại hàng hóa kỳ trân dị bảo ở đó, có thể coi là đối ứng với Thiên Thị Viên trên Thiên thượng.
Bằng cách này, các cung điện trên Thiên thượng đều có quan hệ đối ứng ở trần gian, nhưng đó không phải là tất cả. Nếu mở rộng trục trung tâm này, chúng ta cũng có thể nhìn thấy núi Thái Sơn, núi Hoài Nam sơn, núi Giang Nam sơn, bao gồm cả núi Thiên Thọ, nơi có long mạch của nhà Minh, đều nằm trên trục trung tâm này.
Trong đó, chênh lệch kinh độ giữa Tử Cấm Thành và núi Thái Sơn chỉ là 40 phân (40 phân là chưa đến một độ), hai nơi gần như nằm trên cùng một đường kinh tuyến. Tương truyền, sau khi Bàn Cổ khai thiên tịch địa, đầu của ông hóa thành Thái Sơn. Vì vậy, Thái Sơn luôn được đánh giá cao độ trong văn hóa Trung Hoa, thường là nơi các hoàng đế cầu nguyện cho quốc thái dân an và tổ chức các nghi lễ. Có thể đặt trục trung tâm của Tử Cấm Thành trên cùng một kinh tuyến với núi Thái Sơn, những cao nhân tìm kiếm long mạch cho Chu Đệ quả thực phi thường.
Theo Epoch Times,-Hương Thảo biên dịch