Tuổi thơ cơ cực, khát vọng vươn lên cùng lòng trắc ẩn, đồng cảm với nỗi khổ của phụ nữ H’Mông đã giúp bà Vàng Thị Mai (SN 1962, Quản Bạ, Hà Giang) nỗ lực đưa vải lanh thổ cẩm ra thị trường thế giới, thay đổi số phận của hàng nghìn người.
Nghèo khó bủa vây
Là con thứ 6 trong gia đình có 9 anh chị em, tuổi thơ của bà Mai là “những ngày nghèo đói phủ vây”, với những bữa cơm chỉ có một quả trứng đập vào bát mèn mén, đun sôi cả gia đình chia nhau ăn, với những cây rau bí trước nhà bị hái trụi lá để nấu canh, ăn cho đỡ đói…, theo Vietnamnet.
“Không riêng gì nhà tôi, cả một cộng đồng đều nghèo, nhìn quanh chỉ thấy núi đá…”, bà Mai nhớ lại.
Chia sẻ với phóng viên Ohay TV, bà Mai cho biết: “Đời sống bà con khi đó còn thiếu đói lắm. Chị em phụ nữ chăm chỉ, làm quần quật suốt ngày mà không đủ ăn, hết lên nương, vào rừng rồi lại chăn nuôi, chăm chồng con không nghỉ mà vẫn cơ cực, thương lắm. Phụ nữ H’mông chịu khó mà còn khéo tay nữa. Lên 13 tuổi, ngoài lên nương, các cô gái đã biết se sợi, dệt vải, thêu thùa và may váy áo. Vậy mà vẫn đói khổ”.
18 tuổi, bà Mai lấy chồng nhưng cuộc sống cũng không khá hơn. Thế rồi một ý tưởng xuất hiện: “Sao không dệt lanh may váy áo để bán, cải thiện đời sống?”. Không ngờ rằng, ý tưởng ấy không chỉ thay đổi cuộc đời bà Mai mà còn thay đổi số phận nhiều người phụ nữ khác ở huyện Quản Bạ, Hà Giang.
Hành trình chông gai…
Bà Mai và một số phụ nữ ở Quản Bạ nhờ cụ nội của bà dạy về cách trồng, chăm sóc cây lanh đến khi thu hoạch, tạo nên sợi và dệt ra thành phẩm.
Sau vụ đầu tiên, nhóm của bà Mai bắt đầu có thu nhập từ nghề dệt lanh. Thời gian này, có 2 vợ chồng người Thụy Điển lên Hà Giang cố vấn về trồng rừng. Tình cờ, thấy sản phẩm từ vải lanh của bà Mai đẹp nên họ mang 1 tấm về giới thiệu cho khách nước ngoài.
1 tháng sau, cặp vợ chồng ấy quay lại Hà Giang, đầu tư cho bà Mai cùng những người phụ nữ ở đây giống, phân bón… trị giá khoảng 13 triệu đồng để trồng cây lanh.
Sau 1 năm hoạt động hiệu quả, 2 vợ chồng người Thụy Điển tiếp tục giúp những phụ nữ ở Quản Bạ, Hà Giang giới thiệu sản phẩm đến đại sứ quán các nước.
‘Thấy hàng tốt, họ đặt ngày càng nhiều. Sản phẩm của chúng tôi bắt đầu vượt ra khỏi biên giới. Năm 2001, chúng tôi thành lập hợp tác xã’.
Thế nhưng, bà Mai và các cộng sự đã phải trải qua một hành trình không hề dễ dàng.
Lý do đầu tiên là vì công việc trồng lanh không đơn giản, phụ thuộc nhiều vào thời tiết. “Nếu xảy ra mưa đá hay nắng nóng, hạn hán… cây lanh chết, chúng tôi mất trắng, không có nguyên liệu để làm”. Năm 2018, Hà Giang trải qua 1 trận lũ quét lớn. Đá, nước đổ từ trên đồi xuống làm bục cửa xưởng, ngập và làm hỏng hết toàn bộ nguyên liệu để dệt.
“Chúng tôi phải dùng ô tô chở không biết bao nhiêu nguyên liệu đi vứt bỏ, mất trắng vài trăm triệu. Mọi người lúc đó đều khóc…”, bà Mai nhớ lại.
Nhưng họ không từ bỏ, tiếp tục đi gom nguyên liệu, tái sản xuất.
Bên cạnh đó, bà Mai từng bị người ta nói xấu, những lời đồn thổi kiểu như “Đi làm thuê cho bà Mai làm gì, chỉ đi hầu hạ cho bà ấy thôi…” khiến cho anh em nội ngoại của bà sợ không dám đến xưởng làm. Thời gian đầu, thậm chí không ít một số chị em đến xưởng làm việc còn bị chồng đến tận nơi lôi về. Một ông chồng say rượu còn tát vợ trước mặt bà vì “tội” dám đến xưởng, bởi quan niệm người đàn bà phải ở nhà phục vụ chồng, chăn nuôi gà lợn.
Những khó khăn, sóng gió không khiến bà Mai chùn bước. “Tôi bỏ ngoài tai tất cả vì tôi biết, họ chưa hiểu và chưa tin tưởng mình”, bà chia sẻ.
Thành công của hợp tác xã đã dần thuyết phục người dân xung quanh. Những phụ nữ nghèo có thu nhập, họ tự tin hơn, ngày càng nhiều người tìm đến xưởng.
…Và cái kết ngọt ngào
Đến nay, hợp tác xã Lanh Lùng Tám của bà có 4 xưởng (kéo sợi, may, dệt và kho). Doanh thu của hợp tác xã hàng năm 1,5 tỷ đồng, tạo công ăn việc làm cho hơn 150 người với 9 nhóm sản xuất. Lương của các thành viên từ 4 đến 8, 9 triệu/tháng tùy theo tay nghề và năng suất. 80% khách hàng của họ là người nước ngoài.
Hợp tác xã của bà Mai đã tạo cơ hội thay đổi cuộc đời cho nhiều phụ nữ và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Có chị, chồng mất vì ung thư, một mình nuôi 6 con. Có gia đình, bố chết, mẹ đi lấy chồng khác, 5 đứa trẻ ngủ cùng trên 1 giường không chăn, không màn.
Bà Mai cũng nhận những đứa trẻ đến xưởng để dạy nghề, với mong muốn cho chúng có tiền mua cái ăn, sách vở, và có kỹ năng tự nuôi sống bản thân sau này. Mỗi em có 1 quyển sổ riêng để ghi chép, làm được bao nhiêu sản phẩm cuối ngày sẽ được thanh toán đầy đủ.
Hợp tác xã của bà Mai cũng có những cụ già 70, 80 tuổi đến gõ cửa xin việc làm. Tùy sức khỏe, bà lại sắp xếp cho họ công việc phù hợp để tranh thủ thời gian rỗi rãi.
Bà Mai chia sẻ trên Vietnamnet: ‘Đây là một nghề không giàu nhưng nó giúp cho chúng tôi – những phụ nữ H’Mông có công ăn việc làm, có thể bảo tồn được bản sắc dân tộc.
Tôi cũng tự hào khi đưa được văn hóa của chúng tôi đến với thế giới. Tương lai, tôi muốn đưa mô hình này mở rộng ra các thôn bản khác ở vùng cao. Người phụ nữ H’Mông tự trồng cây, làm sợi, dệt áo, khăn… để tự làm chủ cuộc đời mình”.
Vì vai trò tiên phong trong việc đưa sản phẩm dệt lanh thổ cẩm của người H’Mông ra thị trường trong nước và quốc tế, bà Vàng Thị Mai đã được tạp chí Forbes bình chọn là một trong 50 phụ nữ có ảnh hưởng nhất Việt Nam năm 2017.
Thanh Ngọc (tổng hợp)