Tôi không phải dân Nẫu. Thằng bạn Việt kiều Ý gốc Nẫu xúi tôi viết về Nẫu, kèm theo lời khuyên (răn đe?), nên tham khảo những bài do người Nẫu viết. Không! Tôi chẳng cần tham khảo sách vở. Tôi viết về Nẫu dưới con mắt của người Sài gòn, viết theo ký ức và cảm nhận.
Nẫu hơn cả người… nẫu
Hồi trung học, tôi từng chứng kiến bà vợ Bình Định mắng… chồng, chỉ hiểu loáng thoáng, rõ ràng bả đang hét bằng tiếng Việt, mà hình như xen lẫn tiếng… lạ. Hồi trẻ, gặp gái Bình Định là sợ, về già gặp mấy bà Bình Định là hãi. Chết xuống âm phủ, gặp ma nữ Bình Định thì coi như hết kiếp (khỏi đầu thai). Nói như thế để thấy hồi trẻ tôi bị ám ảnh thế nào. Đàn bà con gái gì mà roi quyền cung cước, thấy là muốn… ù té chạy. Tôi có phải là Lưu Bị đâu mà đứng lại vờ vĩnh sợ hãi, để Ngô quận chúa dẹp hết đao kiếm, dắt chả vào phòng… hoa chúc.
Hồi đó tôi cứ tưởng Nẫu là dân Quảng Ngãi, sau mới biết mình lầm. Bình Định, và cả Phú Yên nữa mới là Nẫu. Tôi hỏi thằng bạn Nẫu: “Bộ mấy bà Nẫu dữ lắm hả?”. Y tần ngần: “Chỉ hơi nóng tính thôi, chứ còn chịu khó lo cho chồng cho con lắm”.
Người Nẫu bảo thủ, gia phong, khuôn phép, cục bộ đến độ hơi cố chấp. Đàm tiếu từ dòng họ làng xóm, thì Nẫu ngán, chứ dư luận bên ngoài thì Nẫu… chấp. Bạn tôi dân Sài Gòn làm rể Nẫu, hàng năm về quê vợ ăn giỗ, nhức nhối về mấy cái nghi thức “duy nhất đúng” kiểu Nẫu. Về lại Sài Gòn là y hú anh em ra quán nhậu xả stress, rồi đi đến kết luận: “364 ngày bả lo cho tao. Tao có 1 ngày để… khổ vì bả, cho bả nở mày nở mặt với bà con. Một ngày của tao còn gấp trăm lần cái ngày 8 tháng 3 ở Sài Gòn. Mấy thằng mua hoa nịnh vợ, hay làm thơ khen vợ là mấy thằng có… khuyết điểm”.
Dĩ nhiên chẳng dại gì lấy một vài trường hợp riêng lẻ, rồi khái quát thành đặc tính của cả một vùng miền, nhưng đó là cảm nhận, mà cảm nhận thì có ai giống ai đâu.
Giọng Nẫu không khó nghe lắm, biến âm nặng một chút, nhưng chen vài “tiếng lạ” thành ra khó hiểu. Phải nghe Hoài Linh hát cái bản thất tình (tôi quên tựa) mới thấm hết cái giọng Nẫu. Lại thêm cảnh tượng một Hoài Linh gầy nhom, lê la ở quán ven đường than thở “…Anh bây giờ, khoé mắt sầu cứ rung rinh có giọt lệ sầu, giọt lệ thảm như nước trong bình nó tuôn ra…”. Trời ơi! Nghe thê lương, sầu thảm gì đâu… Đúng là “nẫu” cả… ruột gan. Chí Phèo có nghe, chắc cũng rơi lệ. Tác giả, tôi đoán, chắc bị em Nẫu nào đó phóng cho một cước chí mạng mới làm nổi cái bài “Đệ nhất thất tình ca” này. Tôi thích bản này, nghe rách cả băng video, nhớ lõm bõm vài câu. Bây giờ muốn nghe lại, chẳng biết tìm ở đâu. Một di sản độc địa như vậy, sao cất kỹ thế!
Người Nẫu ghiền bánh tráng. Thằng bạn Nẫu hót với tôi về nghệ thuật cuốn bánh tráng quê nó tỉ mỉ tới tầm… quốc tế, cứ như nghệ thuật ăn bốc của dân Ấn. Mặc kệ! Tôi chưa bao giờ thử thách đôi tay mình theo cách này (dĩ nhiên, có ai đó cuốn sẵn thì vẫn hơn). Tôi từng dẫn mấy ông Tây bà đầm đi ăn bánh tráng phơi sương, thấy họ toát mồ hôi vì… cuốn. Tôi nói: “Làm theo tôi!”. Lấy bún, khế, chuối xanh, rau thơm, thịt, bánh tráng xé nhỏ ra cho hết vô chén, rưới mắm nêm lên. Rồi, Action! Tây khen good… good… Thiệt giả không biết, nhưng mặt họ tươi hẳn lên, trút được gánh nặng ngàn cân.
Người Nẫu hiếu khách quê mùa kiểu… Nẫu.
Tôi thường đãi khách ở một quán quen. Quen, nên có lần hỏi chuyện một cậu phục vụ ở đó. “Rượu Bàu Đá hồi đó uống ngon, sao bây giờ dở quá vậy. Kinh tế thị trường hả?”.“Quê cháu đâu có làm rượu giả. Chú mua phải rượu dỏm rồi. Thứ 7 này về quê, cháu sẽ mua tặng chú”. Chuyện tưởng quên. Lần sau tôi trở lại, cậu ta mừng rỡ, cháu chờ chú cả tháng nay. Rồi quay vào bếp, mang lên bình 2 lít, trịnh trọng: “Đây là rượu Bàu Đá quê cháu, tặng chú uống chơi”. Tôi cám ơn và trả tiền bình rượu. Cậu ta từ chối. Quê cậu ta ở An Nhơn, Bình Định.
Hơn 10 năm trước, tôi đi công tác Quy Nhơn, rồi ghé Bảo tàng Quang Trung ở huyện Tây Sơn. Hôm đó vắng khách. Tôi vào thắp nhang, xem di tích, rồi ra ngoài điện thờ, chụp ảnh tượng đài. Đang loay hoay vì ngược nắng, thì một anh thợ chụp ảnh dạo bước đến đề nghị chụp dùm. Chuyện nhỏ! Biết tôi là dân Sài Gòn, thế là anh “mở máy” nói, chỗ này là nền nhà xưa của anh em Tây Sơn, chỗ kia là nơi luyện võ. Ông Nhạc dân gọi là ông Hai Trầu, Nguyễn Huệ là chú Ba Bình vì Huệ là tên chị dâu. Đây là giếng nước, cây me ngày xưa họ dùng. Rồi anh chỉ hướng nào là vựa trầu của ông Nhạc, chỗ nào là quê ông Dũng, chỗ nào quê ông Diệu, họ tụ nghĩa thế nào,… Càng nghe càng hứng. Đột nhiên, giọng anh trầm lại, “Em nghe ông bà kể lại, nơi đây, đêm đêm họ nghe thấy tiếng ngựa phi, tiếng binh khí, thấy cả bóng đoàn quân cưỡi ngựa qua núi. Bây giờ không còn nữa”. Tôi cám ơn anh phó nhòm kiêm “sử gia dân dã”. Gửi biếu ít tiền, anh từ chối.
Tôi hiểu, quê Nẫu nghèo, cần kiệm đôi khi trên mức cần thiết một chút. Vùng đất này đã có thời là “hang ổ” của “ngụy quyền” Tây Sơn, bị nhà Nguyễn truy bức bách hại cả gần trăm năm. Họ trở nên khép kín, nhưng cái hào khí năm xưa vẫn là nỗi luyến tiếc và trở thành huyền thoại. Như cái lò xo bị nén, một khi lòng tự hào được xả ra, Nẫu sẽ chơi… xả láng. Tự ti xen lẫn tự tôn là thế!
Nói đến vua Quang Trung, tôi lại nhớ đến bài hịch của ngài:
Đánh cho để dài tóc.
Đánh cho để đen răng.
Đánh cho nó chích luân bất phản.
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn.
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.
Nay, cửa khuyết không còn, nhưng đền thờ còn. Tiện dân từ phương Nam khấu đầu, kính bẩm: “Tâu hoàng thượng, khi nào ngài tái sinh?”.
“Xứ Nẫu”- Tại sao có tên gọi thế?
Xung quanh chữ Nẫu dài lắm, xin tóm lược như sau:
Năm 1558 chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào nhận trọng trách Tổng đốc Thuận Quảng (Thuận Hóa Quảng Nam) ra sức củng cố cơ nghiệp đất phương Nam theo lời dạy của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Hoành Sơn nhất vạn đại dung thân” . Lúc ấy Thừa Tuyên (đơn vị hành chính cấp tỉnh) Quảng Nam kéo dài từ nam đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông. Năm 1578 chúa Nguyễn Hoàng cử Phù nghĩa hầu Lương Văn Chánh làm Trấn biên quan đưa lưu dân khai khẩn vùng đất mới từ nam đèo Cù Mông đến đèo Cả. Sau 33 năm khai phá vùng đất mới hình thành làng mạc.
Năm 1611 chúa Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên (trực thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam) gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa. Năm 1629 chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) nâng cấp phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên (đơn vị hành chính cấp tỉnh. Cả xứ Đàng Trong từ Quảng Bình vào Phú Yên có bảy dinh). Do đặc điểm của vùng đất mới còn hoang hóa dân cư thưa thớt nên các đơn vị hành chính của vùng biên viễn có những nét đặc thù. Dưới cấp huyện có cấp Thuộc, dưới Thuộc là các đơn vị hành chính nhỏ hơn như phường nậu man.
Phường là các làng nghề có quy mô như phường Lụa, phường Sông Nhiễu. Nậu là tổ chức quản lý một nhóm nhỏ cùng làm một nghề, người đứng đầu gọi là đầu nậu.
Ví dụ: “Nậu nguồn” chỉ nhóm người khai thác rừng. “Nậu nại” chỉ nhóm người làm muối .“Nậu rổi” chỉ nhóm người bán cá. “Nậu rớ” chỉ nhóm người đánh cá bằng rớ vùng nước lợ. “Nậu cấy” chỉ nhóm người đi cấy mướn. “Nậu vựa” chỉ nhóm người làm mắm…
Do sự phát triển của xã hội Đàng Trong, năm 1726 chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738) cử Đại ký lục chính danh Nguyễn Đăng Đệ quy định phạm vi chức năng của các đơn vị hành chính. Các đơn vị hành chính như “Thuộc” “Nậu” bị xóa bỏ. Khái niệm thành tố chung cấp hành chính “Nậu” được biến nghĩa dùng để gọi người đứng đầu trong đám người nào đó và sau này dùng để gọi đại từ nhân xưng ngôi thứ ba. Từ “Nậu” không xuất hiện độc lập mà chỉ có mặt trong các tổ hợp danh ngữ:
Ví dụ: – Chiều chiều mây phủ Đá Bia; Đá Bia mây phủ chị kia mất chồng; Mất chồng như nậu mất trâu; Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bơm. Hoặc: Tiếc công anh đào ao thả cá; Năm bảy tháng trời nậu lạ tới câu. Hay: Ai về nhắn với nậu nguồn; Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên.
Từ chữ “Nậu”, ban đầu phương ngữ Phú Yên-Bình Định tỉnh lược đại từ danh xưng ngôi thứ ba (cả số ít và số nhiều) bằng cách thay từ gốc thanh hỏi.
Ví dụ: Ông ấy bà ấy được thay bằng: “ổng” “bả”. Anh ấy chị ấy được thay bằng: “ảnh” “chỉ”. Và thế là “Nậu” được thay bằng “NẪU”.
Phương ngữ Thuận Quảng (Thuận Hóa – Quảng Nam) với “mô tề răng rứa chừ” vượt qua đèo Bình Đê (ranh giới Bình Định – Quảng Ngãi) được đổi thành “đâu kia sao vậy giờ”. Và đặc trưng ngữ âm của vùng Nam Trung bộ (Bình Định – Phú Yên) không phân biệt rạch ròi cách phát âm dấu hỏi và dấu ngã. Đặc biệt bà con vùng biển từ Hoài Nhơn (Bình Định) đến Gành Đỏ (Sông Cầu-Phú Yên) các âm dấu ngã đều phát âm thành dấu hỏi. Riêng đồng bằng Tuy Hòa khi phát âm không phân biệt được dấu hỏi và dấu ngã.
Bởi vậy “NẨU” hay được phát âm là “Nẫu”. Đồng bằng Tuy Hòa trù phú nhiều nhà giàu trong vùng cho con cái đi học chữ phương xa. Các vị có chữ nghĩa viết chữ “Nẩu” theo phát âm quen miệng thành chữ “Nẫu”. Một thời cơ cực thành ngữ “buồn nẫu ruột” “trái cây chín nẫu” (chín úng)… cũng góp phần hóa thân chữ “Nẩu” thành chữ “Nẫu”. Vậy là chữ “Nẫu” theo kiểu phát âm phương ngữ trở thành từ cửa miệng đi vào thơ ca báo chí.
Vũ Thế Thành