Thuộc “ngũ Liêu” nổi danh đất Sơn Nam xưa, làng Liêu Xá (huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) được coi là làng khoa bảng – đất địa linh nhân kiệt, sản sinh ra nhiều nhân tài anh tú. Không chỉ vậy, Liêu Xá còn là quê hương của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác – vị Đại danh y làm rạng rỡ nền y học cổ truyền Việt Nam.
Thuộc “ngũ Liêu” nổi danh đất Sơn Nam xưa, Liêu Xá được coi là làng khoa bảng – đất địa linh nhân kiệt, sản sinh ra nhiều nhân tài anh tú.
Với hàng chục vị đại khoa, hàng trăm cử nhân – tú tài, Liêu Xá xứng đáng xếp trong danh sách các làng khoa bảng nổi tiếng nước Nam. Không chỉ vậy, Liêu Xá còn là quê hương của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác – vị Đại danh y làm rạng rỡ nền y học cổ truyền Việt Nam.
Liêu Xá (huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên) là một làng cổ còn giữ được tương đối hệ thống tư liệu từ xa xưa. Vào thời Lý – Trần, Liêu Xá đã là một làng quê trù phú, tiếng tăm lẫy lừng bởi truyền thống ham học và học giỏi.
Minh chứng cụ thể nhất là Đỗ Thế Diên đỗ đầu khoa thi năm Ất Tỵ (1185). Ông được coi là Trạng nguyên khai khoa của tỉnh Hưng Yên. Ông làm quan trải đến chức Triều nghị Đại phu, kiêm Thẩm phán Viện Thẩm hình. Đến khi về trí sĩ, ông được ban tặng Thượng trụ quốc, thưởng cho đai vàng. Sau khi mất, được triều đình phong Phúc thần, cho dân chúng lập đền thờ trên nền nhà cũ.
Hay như Trần Uyên đỗ Thám hoa khoa thi Thái học sinh năm Bính Thìn niên hiệu Nguyên Phong 6 (1256) đời vua Trần Thái Tông, làm quan đến chức Đại học sĩ.
Từ xa xưa, người ta cho rằng, Liêu Xá là đất địa linh. Làng có dáng hình như hồ lô do được bao bọc bởi một dòng sông. Trong đó, xóm Văn Xá nằm trên mảnh đất hình con rùa, hai bên cánh đồng trải ra đẹp như hai cánh phượng.
Không chỉ có vậy, Liêu Xá còn thuộc vùng đất “ngũ Liêu” nổi danh đất Sơn Nam: Liêu Xá – Liêu Xuyên hiếu học, thành danh; Liêu Hạ phát xuất huyền tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Liêu Trung rộn ràng lễ hội Tứ Pháp…
Chung cho cả làng có đình – miếu Văn, chùa Văn. Bên cạnh đó, làng còn lưu giữ nhiều di vật rất giá trị mà tiên tổ để lại, như bia đá, hoành phi, câu đối… mang tính khích lệ nhân tài. Những hiện vật đó cũng là nguồn gốc và nền tảng cho sự phấn đấu của các thế hệ lập thân lập nghiệp bằng con đường chữ nghĩa khoa cử.
Với hàng chục người đỗ đại khoa, hàng trăm người đỗ cử nhân – tú tài, đã minh chứng cho các giá trị truyền thống của Liêu Xá. Trong đó, dòng họ khoa bảng Lê Hữu có 6 đại khoa thuộc ba thế hệ liên tiếp đỗ đạt thành danh, đúng như lời vàng: Lịch triều phong tặng công, hầu, bá/Kế thế đăng khoa phụ, tử, tôn.
Họ Trần ở Văn Xá và Vũ Xá là dòng họ có số lượng người đỗ đạt đứng thứ hai trong làng Liêu Xá, với 2 người đỗ đại khoa (Trần Uyên và Trần Thu), 31 người đỗ trung khoa, 39 người đỗ tiểu khoa, 19 người có chức tước quan viên.
Tiếp đó là họ Nguyễn có 1 người đỗ đại khoa (Nguyễn Súc), 8 người đỗ trung khoa, 7 người đỗ tiểu khoa được phong chức tước. Ngoài ra, làng Liêu Xá còn có họ Vương với 1 người đỗ tiến sĩ (Vương Nham Khê), họ Vũ, họ Lưu, họ Phạm, họ Hoàng… cũng có người đỗ đạt.
Mộ thiên táng phát khoa bảng
Tiêu biểu nhất làng Liêu Xá là dòng họ Lê Hữu – ngoài 6 vị đại khoa, dòng họ này còn có 36 người đỗ trung khoa, 12 người đỗ tiểu khoa và hơn 10 người là chức sắc trong triều ngoài quận.
Theo gia phả của dòng họ Lê Hữu: Sáu đời đầu của dòng họ, dù có nhiều người giỏi chữ nghĩa nhưng thi cử lại không đỗ đạt. Đầu thế kỷ 18, ông Lê Hữu Dụng là đời thứ bảy cũng là người hiếu học nổi tiếng khắp vùng, nhưng đi thi mấy khoa liền cũng vẫn trượt, đành ở làng mở lớp dạy học.
Một người bạn của ông tên là Đồ Cẩm rất am hiểu phong thủy đến nhà chơi. Biết bạn hay chữ nhưng đường công danh lận đận, mới bày cho ông Dụng cuộc đất tốt để táng mộ của bà Vũ Thị Yêm (mẹ ông Dụng). Thế nhưng sắp đến giờ đẹp để táng thì vẫn còn thiếu tiểu sành. Số là gia cảnh ông Dụng nghèo khó, không có tiền để mua, khiến việc chuẩn bị không xong.
Thấy vậy, Đồ Cẩm liền nói: “Nếu không có tiểu sành thì ông cứ kiếm cho tôi một cái nồi đất miệng rộng, đủ để xếp hài cốt vào là được”.
Đến lúc hài cốt được mang đi cải táng chỗ mới thì bỗng trời nổi gió lớn, mây đen ùn ùn kéo đến, mưa như trút nước, huyệt mới đào bị lấp đầy nước không sao cải táng được. Con cháu họ Lê Hữu đành tạm đưa hài cốt đến rìa lũy tre làng đợi hết mưa sẽ tiếp tục.
Khi mưa tạnh, mọi người tiếp tục công việc thì phát hiện xung quanh chỗ hài cốt đó mối đã đùn lên lấp cao. Bởi vì tin rằng đây là ý trời, nên con cháu quyết định cứ thế đắp thành mộ chứ không táng vào chỗ đất mà ông Đồ Cẩm đã chọn.
Ông Đồ Cẩm sau khi đến xem xét sự lạ thì thốt lên rằng: “Ngôi mộ thiên táng này quả là vô cùng hiếm gặp. Ba mặt Bắc, Tây, Đông của làng này đều có con sông uốn quanh trông hình tựa một trái hồ lô lớn. Nồi hài cốt đã được đặt vào nơi huyệt kết, là kiểu đất “Ngôn kỳ đại thế”, lại dựa vào thế đất hồ lô nên long mạch táng ở đáy.
Kết cục, thế đất có hình thiên mã, có ngựa lớn, ngựa nhỏ chầu về. Bên ngoài thì có kim quy ngưỡng ngọa, bên trong thì có thượng thư án, bên thì tả tượng, bên thì hữu mã cùng chầu. Cứ theo thế đất này thì con cháu dòng họ Lê Hữu sẽ được đinh tài lưỡng vượng, học hành đỗ đạt cao. Họ của ông sẽ trở thành dòng họ quý tộc, chí bách dư niên (phát kết trên 100 năm)”.
Quả nhiên, dòng họ Lê Hữu bắt đầu phát đường khoa bảng. Người khai khoa của dòng họ là con trai cả của ông Lê Hữu Dụng là Lê Hữu Thời. Ông Thời đỗ kỳ thi Hương, vào thi Hội đỗ qua tam trường, được bổ nhiệm làm Tri huyện Chí Linh. Người con thứ của ông Dụng là Lê Hữu Danh đỗ Hoàng giáp khoa thi năm 1670.
Chuyện ông Lê Hữu Danh cũng khá ly kỳ. Sau khi đỗ đạt, Lê Hữu Danh vinh quy bái tổ về làng, cờ lọng uy nghiêm, quân lính chỉnh tề hộ tống. Người hai bên đường ra xem mặt Hoàng giáp rất đông, nhưng có một người con gái cứ đi giữa đường như không thấy chuyện gì. Lính đến dẹp đường, cô gái nói: “Đấy Hoàng giáp thì đây cũng một tổ tiến sĩ”.
Lê Hữu Danh nghe thế thì gặng hỏi, mới biết cô này là Dương Thị Duệ (người thôn Ngọc Quá, xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh – nay thuộc huyện Văn Lâm, Hưng Yên), cháu gái quan Thượng thư Dương Hồ, cháu ngoại của cụ Phạm Công Trứ – Tể tướng đương triều.
Nghĩ mình gặp cô gái này hẳn là duyên, Lê Hữu Danh xuống kiệu, tìm vào nhà quan Thượng thư Dương Hồ kể chuyện và ngỏ lời xin được kết duyên. Dương công cũng cho là duyên phận, liền đồng ý gả cháu gái cho Lê Hữu Danh.
Quê hương Hải Thượng Lãn Ông
Lê Hữu Danh làm quan đến chức Hiến sát sứ, khi mất được phong Tả thị lang, tước Văn Uyên bá. Ông có 10 người con, trong đó 3 con đỗ tiến sĩ. Trong đó, có Lê Hữu Mưu – người con thứ 9. Năm Canh Dần (1710), ông đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ, làm đến Bồi tụng, Hữu thị lang bộ Công rồi giảng sách ở tòa Kinh diên. Sau được tặng Tả thị lang, phong tước Phu Đình bá.
Lê Hữu Mưu có tiếng văn thơ, tài đức được sĩ phu đương thời kính trọng. Người con thứ 7 của ông chính là Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác – về sau được nhân dân xưng tụng là Tổ sư Đông y Việt Nam.
Nhà bác học Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” đã viết về 5 ân điển mà nhà Lê trung hưng ban cho các tân tiến sĩ. Trong đó có ân điển “dân làng trước hết phải dựng phủ đệ cho tiến sĩ”. Các vị đại khoa của dòng họ Lê Hữu không chỉ có phủ đệ riêng, mà còn quy tụ thành một “nhà tiến sĩ”. Đáng chú ý, nhà thờ Tiến sĩ ấy vẫn còn được lưu giữ cho tới ngày nay.
Tại Di tích nhà thờ Tiến sĩ dòng họ Lê Hữu còn lưu giữ tấm bia “Lê triều Lê Tướng công mộ chí”. Bia tạo dựng năm 1738, do người cháu tiến sĩ họ Dương chấp bút, nội dung ghi lại một thời gian khổ, quyết chí học tập của các vị đại khoa họ Lê Hữu. Tấm bia bốn mặt tái hiện truyền thống hiếu học của một gia đình khoa bảng, văn nhân, sống đông vui hòa hợp. Mọi thành viên có hướng đi lập thân lập nghiệp riêng cho mình, góp sức làm vững bền gia thế, rạng rỡ quê hương.
Nằm ở xóm Văn Xá – trung tâm thôn Liêu Xá, gần nhà thờ Đại tôn Lê Hữu. Theo gia phả, nhà thờ Tiến sĩ được dựng từ nửa cuối thế kỷ 17 và đã được tu sửa nhiều lần. Trên cổng nhà thờ còn rõ đại tự “Tiến sĩ môn”, cùng đôi câu đối ca ngợi Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác: “Hiển đạt Đông y danh quốc sử/ Lưu truyền Nam dược tế dân sinh (Làm rạng rỡ khoa thuốc phương Đông để tên tuổi trong quốc sử/ Lưu truyền lại ngành thuốc Nam cứu độ cuộc sống nhân dân).
Trần Hòa (Báo Giáo dục và Thơi đại)