Báo Wall Street Journal (WSJ) vừa công bố bài phân tích của hai chuyên gia về Biển Đông, trong đó nhận định rằng chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump cần ngăn chặn tình trạng gây hấn và bắt nạt của Trung Quốc ở vùng biển chiến lược này.
Tác giả của bài viết là ông Gregory B. Poling, giám đốc tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tại Washington và ông Murray Hiebert, nhà nghiên cứu cấp cao tại Chương trình Đông Nam Á của CSIS.
Mở đầu bài viết, hai tác giả đề cập đến việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về hành vi quấy rối của Trung Quốc đối với các giàn khoan dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông. Ngày 22/8, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Morgan Ortagus lên án Bắc Kinh liên tiếp can thiệp các hoạt động khai thác dầu khí lâu đời của Việt Nam bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Theo ông Poling và ông Hiebert, Bộ Ngoại giao Mỹ đã có hành động đúng đắn khi đưa ra cảnh cáo đối với Bắc Kinh, nhưng Hoa Kỳ và đồng minh cần phải làm nhiều hơn thế để buộc Trung Quốc kiềm chế lực lượng bảo vệ bờ biển và tàu dân quân biển, trước khi nước này gây ra xung đột nghiêm trọng, khơi mào cho một cuộc khủng hoảng trong khu vực.
Hai ông cho biết AMTI có khả năng theo dõi các hoạt động phá rối của Trung Quốc trên Biển Đông thông qua việc sử dụng các tín hiệu nhận dạng phát ra từ tàu thuyền trên biển.
AMTI cho biết ngày 16/6, tàu Haijing 35111 của Trung Quốc đã xâm nhập vùng biển của Việt Nam, tại vị trí mà Việt Nam hợp tác với công ty năng lượng Rosneft của Nga để khai thác một giếng dầu mới. Tàu hải cảnh và các tàu khác của Trung Quốc bắt đầu quấy rối giàn khoan và các tàu dịch vụ của giàn khoan này. Trong bài phân tích mới đây, hai tác giả cho biết sự việc này “vẫn đang diễn ra”.
Theo hai chuyên gia, Bắc Kinh cũng đã gây sức ép đối với hầu hết các công ty lớn của nước ngoài khác như PP, Chevron, ConocoPhillips và gần đây nhất là Repsol nhằm ngăn các công ty này đầu tư vào hoạt động khai thác năng lượng ngoài khơi ở Việt Nam. Trong khi Rosneft bị buộc phải ngưng hoạt động giữa chừng, thì các công ty còn lại – đặc biệt là Exxon Mobil vốn đang chuẩn bị thực hiện một dự án khai thác khí đốt lớn có tên là Cá Voi Xanh (Blue Whale) có thể sẽ suy tính lại kế hoạch đầu tư vào Việt Nam.
Tàu Haijing 35111 không thành công trong việc ngăn cản hoạt động khai thác dầu khí tại Việt Nam và Malaysia, nhưng hai nước này vẫn phải chịu những tổn thất nhất định. Một con tàu khác của chính phủ Trung Quốc là Haiyang Dizhi 8 đã xâm phạm vùng biển Việt Nam ngày 3/7 và đơn phương tiến hành khảo sát dầu khí khu vực này. Hai chuyên gia Mỹ cho biết cuộc khảo sát vẫn đang tiếp diễn và phạm vi khảo sát bao gồm cả vùng đáy biển hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam theo luật pháp quốc tế.
Các tín hiệu theo dõi cho thấy tàu khảo sát này được tháp tùng bởi rất nhiều tàu hải cảnh và các tàu thuộc lực lượng dân quân vũ trang của Trung Quốc – một lực lượng bán quân sự điều động từ các tàu cá. Việt Nam đã nhanh chóng điều động tàu hải cảnh bảo vệ giàn khoan và theo dõi hoạt động của tàu khảo sát. Các chuyên gia nhận định rằng điều này đã tạo ra một tình huống bất ổn, dễ dàng châm ngòi cho các vụ đụng độ, dù vô tình hay cố ý, và hậu quả tiếp theo có thể là đụng độ quân sự công khai.
Một tàu quốc gia khác của Trung Quốc là Shi Yan 2 đã thực hiện cuộc khảo sát kéo dài một tuần tại vùng biển Malaysia vào đầu tháng 8, bao gồm cả khu vực đang hoạt động các giàn khoan có hợp đồng với Shell và các công ty khác. Từ ngày 14/8, tàu khảo sát thứ 3 của Trung Quốc là Haiyang 4 đã tiến hành khảo sát khu vực thềm lục địa mà cả Malaysia và Việt Nam cùng tuyên bố chủ quyền.
Các chuyên gia Mỹ bình luận, nếu Washington muốn ngăn chặn khủng hoảng và tỏ rõ sự nghiêm túc trong việc bảo vệ tự do hàng hải, thì phải cần đến một chiến lược kinh tế – ngoại giao mạnh mẽ, chặt chẽ với các đối tác quốc tế. Hai ông viết: “Mục tiêu là tăng mạnh cái giá mà Bắc Kinh phải trả và buộc giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu rằng họ sẽ mất nhiều trên sàn đấu quốc tế hơn là hưởng lợi cục bộ từ chiến dịch quấy rối này”.
Theo các chuyên gia CSIS, một chiến lược như vậy nên bắt đầu bằng việc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ kêu gọi liên minh với các quốc gia khác bao gồm Châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc nhằm đốc thúc Trung Quốc tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế. Nếu liên minh này càng mạnh mẽ trong các hành động kêu gọi Bắc Kinh thay đổi, thì phí tổn uy tín với Bắc Kinh sẽ càng tăng vì tiếp diễn những hành vi phá hoại kể trên.
Các nhà nghiên cứu cũng nhận định rằng Mỹ và các đồng minh nên kết hợp điều này với các lệnh áp thuế trực tiếp lên kinh tế Trung Quốc. Hai ông cho rằng: “Nếu Trung Quốc muốn dựa vào lực lượng cải trang dân sự và bán quân sự để o ép các nước láng giềng, thì các lực lượng này cần phải bị phơi bày. Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh nên công khai danh tính của cả ‘diễn viên’ và ‘đạo diễn’, những kẻ hiện đang sử dụng các lực lượng dân quân nhắm vào các quốc gia láng giềng Trung Quốc”.
Ông Poling và ông Hiebert đề xuất Washington nên ngăn cấm những tổ chức này làm ăn kinh doanh tại Hoa Kỳ hoặc tiếp cận thị trường tài chính quốc tế thông qua các phương tiện như Đạo Luật Trừng Phạt Biển Đông. Hai ông chỉ ra một tiền lệ cho việc này: Hoa Kỳ và Châu Âu đã có hành động đáp trả tương tự đối với việc Nga sử dụng lực lượng bán quân sự ở miền Đông Ukraina vào năm 2014.
Cuối bài phân tích, hai chuyên gia bình luận: “Trung Quốc đang tiến hành một chiến dịch dài hạn nhằm quấy rối, đe dọa và sử dụng bạo lực thông qua lực lượng bán quân sự đối với Việt Nam, Malaysia và Philippines. Nước này không ngừng đưa ra các tuyên bố ngang ngược, vi phạm luật pháp quốc tế, thách thức chủ quyền các quốc gia khu vực Đông Nam Á, đây là một thách thức nghiêm trọng đối với trật tự quốc tế trên biển và sự ổn định của khu vực”
ĐKN