Có rất nhiều những phát minh, ý tưởng của người khác khiến chúng ta ngưỡng mộ bởi tài năng của họ. Tuy nhiên ít ai biết được rằng, có rất nhiều các phát kiến khoa học dường như được “gửi đến” cho họ qua các giấc mơ.
Trung bình, mỗi đêm chúng ta sẽ có khoảng 3 đến 6 giấc mơ, mỗi lần kéo dài từ 5 đến 20 phút. Trên thực tế, bạn có thể không nhớ hết được chúng vì có khoảng 95% giấc mơ sẽ bị lãng quên khi chúng ta tỉnh dậy.
Tuy nhiên cũng có những giấc mơ mang đến các thông điệp khá rõ ràng. Dưới đây là một số ví dụ về những phát minh mà các nhà khoa học khám phá được trong giấc mơ:
1. Albert Einstein và tốc độ ánh sáng
“Einstein nói rằng toàn bộ sự nghiệp của ông là một sự suy ngẫm kéo dài dựa trên một giấc mơ của mình vào thời thiếu niên”, mục sư John W.Price nói trong một buổi phỏng vấn trên chương trình radio “Những cỗ máy trí tuệ của chúng ta.”
“Trong giấc mơ, Einstein thấy mình cưỡi trên chiếc xe trượt tuyết đang xuống dốc rất nhanh. Khi Einstein và chiếc xe di chuyển gần bằng tốc ánh sáng, tất cả các màu sắc pha trộn thành một. Sau đó, ông dành phần lớn sự nghiệp của mình để suy nghĩ về những gì xảy ra ở tốc độ ánh sáng.”
2. Dmitri Mendeleev và bảng tuần hoàn hóa học
Dmitri Mendeleev (1834-1907) muốn sắp xếp 65 nguyên tố hóa học đã biết theo một cách nào đó. Ông biết có một mô hình để phân biệt chúng và có liên quan tới trọng lượng của các nguyên tử. Tuy nhiên, ông vẫn không biết làm cách nào để sắp xếp chúng theo một sơ đồ thật hoàn chỉnh và logic cho đến khi mơ một giấc mơ kỳ lạ.
“Trong giấc mơ tôi thấy một tấm bảng, nơi tất cả các nguyên tố được đặt vào chỗ theo yêu cầu. Khi tỉnh dậy, tôi ngay lập tức viết nó ra giấy”, Mendeleev nói. Điều này được trích dẫn trong cuốn “Về vấn đề sáng tạo trong khoa học” của nhà hóa học người Nga B.M.Kedrov.
Việc sắp xếp các nguyên tố mà ông thấy trong giấc mơ rất chính xác. Thậm chí nó còn tiết lộ rằng, số liệu đo được của một vài nguyên tố vào thời điểm đó là không đúng. Ngoài ra, bảng tuần hoàn cũng giúp cho giới khoa học dự đoán những nguyên tố mới chưa được biết đến dựa trên trọng lượng nguyên tử.
3. Niels Bohr và mô hình nguyên tử
“Niels Bohr [1885-1962] cho biết ông phát triển mô hình nguyên tử dựa vào giấc mơ: ông ngồi trên Mặt Trời cùng với tất cả các hành tinh bay xung quanh, bám trên những sợi dây nhỏ”, theo một nghiên cứu có tựa đề “Pillow-Talk: Seamless Interface for Dream Priming Recalling and Playback,” bởi Edwina Portocarrero, Viện Công nghệ Massachusetts (Hoa Kỳ).
Phát hiện này mở ra một cánh cửa cho nhân loại, giúp hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của nguyên tử.
4. Elias Howe và máy may
Elias Howe (1819-1867) thường được cho là “ông tổ của máy may công nghiệp”. Trên thực tế, ông đã cải thiện đáng kể các thiết kế trước đó và nhận bằng sáng chế đầu tiên của Hoa Kỳ cho máy may sử dụng thiết kế lockstitch. Đó là một bước tiến lớn trong việc tạo ra máy may hiện đại.
Trước khi phát minh đến trong một giấc mơ, Howe đã dành nhiều thời gian để chế tạo chiếc máy may công nghiệp, nhưng tất cả đều không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Cụ thể, Howe nằm mơ phải chế tạo chiếc may may cho một vị vua man rợ ở đất nước xa lạ. Vị vua yêu cầu phải hoàn thành nó trong 24 giờ đồng hồ. Do không hoàn thành đúng hạn nên ông đã bị đem đi xử tử. Trong lúc thi hành án, Howe nhận thấy binh lính cầm cây giáo có lỗ xuyên qua ở phần đầu.
Ngay lập tức ông phát hiện ra cách giải quyết vấn đề và tỉnh dậy lúc 4 giờ sáng. Thế là Howe bật dậy rồi nhanh chóng chạy ngay tới xưởng chế tạo. Đến 9 giờ sáng, bản phác thảo máy may mới đã hoàn thành, nó có lỗ kim để luồn chỉ may được khoan ở đầu nhọn của kim, phối hợp với con suốt chỉ, tạo nên đường may.
5. Friedrich August Kekulé và cấu trúc phân tử của Benzen
Friedrich August Kekulé (1829-1896) đã phát triển một lý thuyết cấu trúc hóa học liên quan đến trật tự liên kết của các nguyên tử trong phân tử. Đây là điều không thể thiếu trong sự phát triển của hóa học hữu cơ. Khi ngủ gật trên xe buýt, ông đã phát hiện ra cấu tạo dạng vòng của benzen.
“Khi đang ngồi xe buýt qua những con phố vắng lặng, tôi chìm vào trạng thái mơ màng. Các nguyên tử nhảy nhót trước mắt tôi và luôn chuyển động. Tôi thấy hai nguyên tử nhỏ liên kết với nhau theo cặp. Một nguyên tử lớn hơn gắn chặt với hai nguyên tử nhỏ hơn, đồng thời những nguyên tử lớn hơn liên kết với nhau thành chuỗi. Sau đó, tôi đã trải qua gần một đêm để vẽ ra giấy bản phác thảo dựa trên giấc mơ”, Kekulé nói.
6. Tiến sĩ Otto Loewi và khoa học thần kinh
Tiến sĩ Otto Loewi, được coi là “cha đẻ của ngành khoa học thần kinh”, đã đưa ra một lý thuyết cho rằng có thể tồn tại sự truyền dẫn hóa học giữa các xung động thần kinh. Tuy nhiên, ông không có cách nào để chứng minh điều đó.
Theo đài BBC đưa tin, năm 1920, ông có hai giấc mơ trong suốt hai đêm liên tiếp, trong đó ông mơ thấy thí nghiệm để chứng minh lý thuyết của mình. Việc này đã mở ra con đường giúp ông giành được giải thưởng Nobel về y học vào năm 1936.
7. Srinivasa Ramanujan và các phương trình toán học
Srinivasa Ramanujan (1887-1920) là một trong những nhà toàn học nổi tiếng nhất Ấn Độ mặc dù ông không được đào tạo một cách bài bản về bộ môn này. Tuy vậy, ông vẫn có rất nhiều đóng góp khó tin cho nền toán học. Điều kỳ diệu là ông cho biết mình lấy ý tưởng nghiên cứu từ nữ thần Mahalakshmi mà gia đình mình thờ cúng.
Ramanujan cho biết, nữ thần đã đến thăm ông mỗi ngày trong những giấc mơ và gọi ý cho ông. Và mỗi sáng thức dậy, Ramanujan đều cẩn thận ghi chép lại những công thức mà mình đã được học vào đêm qua một cách đơn giản nhất có thể. Chỉ vài năm sau đó, ông đã ghi chép được tổng cộng 3.900 công thức phức tạp.
Bộ phim “The Man Who Knew Infinity” kể lại cuộc đời
của nhà toán học huyền thoại Srinivasa Ramanujan. (Ảnh: Internet)
“Chỉ riêng một mình anh ta đã đánh bại tất cả các nhà toán học châu Âu”, nhà toán học nổi tiếng Godfrey Harold Hardy nhận định. Ông coi Ramanujan như người đi trước thời đại và xếp anh ngang với Euler và Gauss – những tên tuổi khiến cho Hardy phải cúi đầu.
Theo The Epoch Times, – Phan Anh tổng hợp