“Tại sao trong mắt tôi lại ngập tràn nước mắt, là vì tôi có tình yêu sâu đậm với mảnh đất này”. Câu nói này thường được dùng để miêu tả tình yêu đối với quê hương. Duyên phận kỳ diệu như vậy đó, không biết tại sao con người đối với quê hương lại luôn có tình cảm quyến luyến không nỡ tách rời đến thế. Tình yêu dành cho quê hương của một số người, dù yêu cả đời vẫn không thấy đủ, kiếp sau đầu thai vẫn tiếp tục yêu mảnh đất đó. Trong sách cổ “Tuyên Thất Chí” có ghi chép về câu chuyện Gia Cát Lượng tái sinh để kiến tạo Lạc Sơn Đại Phật, canh giữ Thiên phủ chi quốc (Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên).
Tái sinh trên đất Thục Hán
Trong sách cổ “Tuyên Thất Chí” có ghi chép câu chuyện Gia Cát Lượng đầu thai vào thời nhà Đường. Năm 746, gia tộc Vi thị vô cùng hiển hách thời bấy giờ chào đón sự ra đời của một bé trai, đặt tên là Vi Cao. Khi Vi Cao đầy tháng, trong nhà tổ chức cúng trai tăng, mời rất nhiều cao tăng đến cầu phúc cho Vi Cao.
Có một tăng nhân người Ấn Độ với vẻ ngoài xấu xí, không rõ họ tên, không mời mà đến, nhìn thấy đứa bé Vi Cao liền hỏi: “Cách biệt lâu ngày vẫn khỏe chứ?”. Vi Cao hình như là nghe hiểu lời của ông, trên mặt lộ rõ nét vui mừng, mỉm cười với ông, mọi người đều vô cùng kinh ngạc. Cha của Vi Cao nói: “Con tôi mới ra đời được một tháng, sao sư phụ lại nói là cách biệt rất lâu?”. Cao tăng nói: “Đây không phải là điều mà thí chủ có thể biết”.
Cha của Vi Cao hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần, tăng nhân Ấn Độ mới chịu nói: “Đứa bé này là tái sinh của Gia Cát Vũ Hầu! Vũ Hầu là thừa tướng của Tây Thục, người nước Thục đều nhận ân huệ của ông ấy. Bây giờ ông ấy lại tái sinh trên cõi đời này, sinh ra trong nhà tướng, sau này vẫn sẽ làm nguyên soái trên đất Thục, bảo vệ đất Thục. Trước kia tôi sống ở Kiếm Môn, rất thân thiết với Vũ Hầu, bây giờ nghe nói ông ấy tái sinh vào Vi gia, vì vậy tôi mới không ngại đường xá xa xôi mà đến đây”.
Người nhà của Vi Cao nghe xong lời vị tăng đó nói đều cảm thấy rất kỳ lạ, vì vậy liền dùng tên “Vũ Hầu” đặt làm tự hiệu cho Vi Cao. Con đường công danh của Vi Cao sau này, quả nhiên đúng với những gì vị cao tăng Ấn Độ đó đã nói.
Trong sách cổ “Thần Tăng Truyện” có ghi chép, Vi Cao có tài học hơn người, con đường thăng quan tiến chức rất thuận lợi. Tổng cộng được phong làm Tạ Kim Ngô Vệ tướng quân, Thiên Đại tướng quân, Kiếm Nam Tây Xuyên tiết độ sứ, cuối cùng trở thành người bảo vệ mảnh đất Thục Hán, xưng bá một phương.
Người dân nơi đây quen lối sống ngang ngược hung bạo, vốn dĩ không dễ quản lý, cộng thêm phía nam có Nam Chiếu, phía tây có Thổ Phồn liên tục mang quân đến xâm phạm. Vi Cao tinh thông binh pháp, sau khi nhậm chức đã tiến hành phân tích cục diện của Kiếm Nam, nghĩ ra cách ứng phó riêng biệt cho từng kẻ địch, vô cùng hiệu quả.
Những năm Thiên Bảo, trong cuộc chiến giữa quân Đường và quân Nam Chiếu, tổng cộng có 180 ngàn binh lính đã đổ máu trên mảnh đất này. Những năm Trinh Nguyên, dưới sự lãnh đạo của Vi Cao, tuy biên cương vẫn chiến tranh liên miên nhưng nước Đại Đường cuối cùng cũng không bị tổn thất quá nặng nề.
Năm Trinh Nguyên thứ 17, Vi Cao chủ động tấn công, chia binh ra thành mười lộ, đánh thẳng vào khu vực trọng tâm của vương quốc Thổ Phồn. Ông tấn công một lượt công phá được liên quân của vương quốc Thổ Phồn và nước Đại Thực (Nhà Abbas của Ả Rập). Trải qua nhiều tháng, Vi Cao đánh thắng được mười sáu vạn quân Thổ Phồn, chiếm được bảy tòa thành trì, năm tòa quân trấn.
Vi Cao ở tại đất Thục 21 năm, tổng cộng đánh bại được 48 vạn quân Thổ Phồn, bắt giết 1500 tiết độ sứ, đô đốc, thành chủ, quan viên, thu được 25 vạn bò dê, 630 mươi vạn binh khí.
Hoàn tất công trình Lạc Sơn Đại Phật
Khi ấy nước sông ở điểm hợp lưu của ba con sông tại Lạc Sơn chảy siết dữ dội, thuyền bè thường xuyên bị lật đổ. Mỗi lần vào mùa hè nước lũ dâng cao, nước sông dội thẳng vào vách núi, thường xuyên gây ra bi kịch thiệt hại về tài sản và tính mạng. Thiền sư Hải Thông vì muốn giảm bớt lũ lụt, nên đã triệu tập nhân lực và gom góp tiền của để tạc tượng Phật. Năm đầu tiên thời kỳ khai nguyên của Đường Huyền Tông (Năm 713) bắt đầu thi công kiến tạo Lạc Sơn Đại Phật.
Hàng trăm ngàn người thợ giỏi đều vội vàng đi đến núi Lăng Vân để hội tụ. Ngày đầu tiên thi công, hàng ngàn cây búa gõ vào vách đá, tạo ra những âm thanh vang trời, ngàn năm hiếm thấy. Nghe kể rằng ngay đến con thủy quái làm mưa làm gió đang ẩn mình dưới đáy sông cũng hoảng sợ mà ngoi lên trên mặt nước, rồi hốt hoảng bỏ trốn. Các đường nét của tượng Phật càng ngày càng rõ rệt, điểm hợp lưu của ba con sông cũng càng ngày càng bình yên.
Khi tạc đến phần vai của Đại Phật, thì thiền sư Hải Thông qua đời, công trình cũng vì vậy mà bị gián đoạn. Nhiều năm sau, Kiếm Nam Tây Xuyên tiết độ sứ Chương Cừu Kiêm Quỳnh quyên góp bổng lộc của mình để tạc tượng, sau đó đệ tử của thiền sư Hải Thông lại dẫn theo thợ điêu khắc tiếp tục đi tạc tượng Phật. Nhưng khi tạc đến phần đầu gối Phật, Chương Cừu Kiêm Quỳnh bị chuyển sang làm hộ bộ thượng thư, công trình lại bị gián đoạn thêm lần nữa.
Bốn mươi năm sau, Vi Cao quyên tặng tiền bổng lộc tiếp tục điêu khắc Lạc Sơn Đại Phật, cứ như vậy mà trải qua ba đời thợ điêu khắc đá, trong thời gian 90 năm, đến năm 803 ngọn núi Lạc Sơn Đại Phật cao 71 mét này cuối cùng đã hoàn tất. Vi Cao lại soạn “Gia Châu Lăng Vân Tự Đại Di Lặc thạch tượng ký” ghi lại quá trình tạc tượng Phật từ đầu đến cuối.
Ấy chính là Gia Cát Lượng vẫn không quên nước Thục, tái sinh thành Vi Cao để hoàn thành công trình tạc tượng Phật Di Lặc đang ngồi, hai tay đặt lên đầu gối, chân đạp lên hoa sen, nhìn ra nước sông cuồn cuộn chảy dài, thần thái ung dung, bảo hộ ba hẻm núi (hẻm núi Cù Đường, hẻm núi Vu và hẻm núi Tây lăng), cũng là bảo hộ toàn bộ chúng sinh tại Ba Thục.
Theo Sound Of Hope – Châu Yến biên dịch