Các ông chủ đang rất hào hứng với ChatGPT. Sự bùng nổ AI sáng tạo đã trở thành một lợi ích cho các công ty muốn tự động hóa việc xây dựng bảng tính, viết quảng cáo và các nhiệm vụ đơn giản khác dưới danh nghĩa cần một sự ‘hiệu quả’ hơn.
Công nghệ này đã thu hút sự chú ý của các CEO và tổ hợp công nghiệp nơi làm việc, khiến nhiều công ty bắt đầu quan tâm đến AI (với nhiều kết quả khác nhau).
Trong khi các giám đốc điều hành và tầng lớp quản lý đều tập trung vào AI, thì những người bị ảnh hưởng bởi công nghệ mới này lại ít được quan tâm.
Các nhiệm vụ đơn giản cho đến nay thường được xử lý bởi những người lao động mới vào nghề, và chúng có vẻ sẽ được chuyển giao cho AI trong thời gian sớm nhất.
Các nhà quản lý giao những nhiệm vụ này cho nhân viên mới với kỳ vọng rằng chúng sẽ được hoàn thành nhanh chóng, đúng thời hạn và hoàn thành mà không cần bất kỳ ai giải thích cách thực hiện chúng.
Công việc này được miêu tả là một phần quan trọng trong quá trình phát triển của những người tập sự để có thể bắt đầu “kiếm tiền” tại nơi làm việc.
Giờ đây, với sự ra đời của AI tạo sinh (một loại trí tuệ nhân tạo tập trung vào việc tạo ra nội dung/dữ liệu mới dựa trên dữ liệu hiện có), các công ty bắt đầu tự động hóa nhiều nhiệm vụ đơn giản, loại bỏ nỗ lực cuối cùng trong việc dạy các nhân viên trẻ.
Không có gì lạ khi một số cuộc khảo sát đã phát hiện ra rằng các thành viên của Gen Z (nhóm người sinh từ năm 1995 đến năm 2012) đặc biệt quan tâm đến ảnh hưởng của AI đối với sự nghiệp của họ. Trong một cuộc khảo sát gần đây của trang đăng tuyển dụng ZipRecruiter, 76% Gen Z cho biết họ lo lắng bị mất việc vào tay ChatGPT.
Những người lao động trẻ của Mỹ đang đứng trước một thảm họa nghề nghiệp. Họ có thể cảm thấy thoải mái hơn khi sử dụng ChatGPT và công nghệ AI khác so với các đồng nghiệp lớn tuổi hơn, nhưng nỗi ám ảnh về quản lý đối với trí tuệ nhân tạo có nguy cơ làm suy yếu khả năng khởi nghiệp của họ.
Và nếu những giám đốc điều hành này không đào tạo nhân viên cấp dưới của họ, thì không có gì ngạc nhiên khi họ sẵn sàng loại bỏ họ hoàn toàn.
Áp lực của Gen Z
Ngay cả trước khi AI nổi lên, những người trẻ tuổi đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng sớm trong sự nghiệp. Chắc chắn, nhìn bề ngoài, có vẻ như Gen Z đang gia nhập lực lượng lao động ở một thời điểm tuyệt vời.
Tìm việc làm dễ dàng hơn nhiều so với trước đây nhờ tỷ lệ thất nghiệp thấp trong lịch sử và tiền lương cho lao động trẻ đang tăng nhanh. Nhưng nếu bạn nhìn sâu hơn, ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy thanh niên Mỹ sẽ gặp khó khăn hơn nhiều khi thực sự xây dựng sự nghiệp.
Gen Z đứng trước 8 áp lực lớn ngay trước ngày đầu tiên họ đi làm. Khi chi phí học đại học tăng cao, nhiều người trong số họ đang bắt đầu công việc đầu tiên để trả nợ gánh nặng thời sinh viên.
Một nghiên cứu năm 2022 của Ngân hàng Dự trữ Liên bang St. Louis đã phát hiện ra rằng Thế hệ Z có nhiều khả năng mắc nợ thời sinh viên hơn so với thế hệ millenial ở độ tuổi của họ, rằng mức nợ trung bình của Gen Z cao hơn 13% so với thế hệ millennials, và tỷ lệ tương tự khi sinh viên thuộc thế hệ Gen Z và millennials có khoản nợ sinh viên chưa thanh toán trị giá 50.000 USD trở lên.
Việc không muốn học đại học của nhiều sinh viên thuộc thế hệ Gen Z xem ra lại là một may mắn lớn. Bất chấp sự phản đối gần đây, số lượng công việc yêu cầu bằng đại học đã tăng lên trong nhiều thập kỷ.
Việc tìm kiếm một công việc đầu tiên có thể khiến Gen Z vò đầu bứt tai. Một phân tích của LinkedIn về 3,8 triệu tin tuyển dụng từ năm 2017 đến năm 2021 cho thấy 35% công việc cấp đầu vào yêu cầu ít nhất ba năm kinh nghiệm.
Và nếu bạn cố gắng đi theo con đường thực tập để lấy kinh nghiệm, bạn là người may mắn.
Một cuộc khảo sát năm 2021 của Hiệp hội các trường đại học và nhà tuyển dụng quốc gia cho thấy rằng hơn 40% số lượt thực tập không được trả lương và mức lương trung bình mỗi giờ cho các thực tập sinh được trả lương chỉ là 20,76 USD vào năm 2020, một mức ngân sách eo hẹp ở nhiều khu vực đô thị lớn.
Khi những người lao động trẻ tuổi cuối cùng cũng bước chân vào thế giới doanh nghiệp, họ phải đối mặt với một thực tế tàn khốc khác: Các công ty không quan tâm đến việc giúp họ thăng tiến trong sự nghiệp.
Nhiều công ty đã hoàn toàn không quan tâm đến việc bồi dưỡng và phát triển khả năng của người lao động, khiến những người lao động trẻ phần lớn phải tự lo cho bản thân khi họ cố gắng thiết lập con đường sự nghiệp.
Một nghiên cứu năm 2014 của Peter Cappelli, giáo sư tại Trường Kinh doanh Wharton của Đại học Pennsylvania, cho thấy vào năm 1979, “những người lao động trẻ tuổi được đào tạo trung bình khoảng 2,5 tuần mỗi năm” nhưng đến năm 1995, con số này đã giảm xuống chỉ còn dưới 11 giờ mỗi năm. Capelli cũng tìm thấy rất ít bằng chứng cho thấy mọi thứ đã được cải thiện trong những năm sau đó.
Vào năm 2014, Bộ Lao động Hoa Kỳ đã phát hiện ra rằng trong khi 70% các công ty cung cấp “một số hình thức đào tạo cho nhân viên”, thì chúng chủ yếu lại dành cho các cấp “quản lý và công nhân cấp trung”.
Thống kê này đặc biệt đáng lo ngại, một phần vì “một số loại hình đào tạo” cực kỳ mơ hồ và có thể đề cập đến những thứ đơn giản như đọc sổ tay nhân sự, và một phần vì 30% công ty không hề cung cấp bất kỳ hình thức đào tạo nào.
Gần đây hơn, trong một cuộc khảo sát do Paul Osterman, giáo sư tại MIT thực hiện vào năm 2020, kết quả cho thấy gần 50% nhân viên cho biết họ không được chủ lao động đào tạo nghề chính thức trong năm qua.
Osterman cũng cho biết kết quả cuộc khảo sát cho thấy các công ty đã không cung cấp cho nhân viên các hình thức đào tạo giúp nâng cao kỹ năng hoặc thăng tiến trong sự nghiệp.
Thay vì đào tạo nhân sự mới, nhiều công ty ở Mỹ chỉ thực hiện các hoạt dộng cố vấn nghề một cách hời hợt. Minh họa của Bigstockphoto
Bạn có thể cho rằng các tổ chức sẽ cố gắng thúc đẩy hoạt động cố vấn trong lực lượng lao động như một cách để bù đắp cho việc thiếu đào tạo một cách nghiêm túc.
Mặc dù sự cố vấn có liên quan đến mức độ hài lòng trong công việc và cam kết với tổ chức cao hơn, nhưng một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew năm 2023 cho thấy chỉ 44% công nhân Mỹ có một người cố vấn.
Và trong khi các chương trình cố vấn chính thức tồn tại, chúng thường là tự nguyện.
Một nghiên cứu từ Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia cho thấy các chương trình cố vấn tự nguyện dẫn đến kết quả tồi tệ hơn so với các chương trình bắt buộc và những người cần sự giúp đỡ của cố vấn nhất ít có khả năng tham gia các lchương trình oại này.
Điều này có thể là do văn hóa nơi làm việc thường xa lánh những người yêu cầu giúp đỡ, tạo ra cảm giác phổ biến rằng các tổ chức không thực sự quan tâm đến nhân viên của họ.
Trong một cuộc thăm dò thường xuyên của Gallup đối với người lao động Hoa Kỳ, chỉ 24% người lao động được khảo sát vào tháng 5/2022 cho rằng tổ chức của họ quan tâm đến sức khỏe của họ, giảm 33% so với thời điểm khảo sát vào tháng 5 năm 2021 và giảm tới 49% so với thời điểm tháng 5 năm 2020.
Sự thiếu quan tâm này là rõ ràng đè nặng lên những người lao động trẻ, những người cần phát triển nghề nghiệp nhất.
Workplace Intelligence, một công ty nghiên cứu nhân sự, cho biết trong một cuộc khảo sát được thực hiện với Amazon vào năm 2022, 74% Gen Z và thế hệ thiên niên kỷ cho biết họ đang cân nhắc rời bỏ công việc của mình “do hỗ trợ xây dựng kỹ năng dưới mức trung bình hoặc thiếu các lựa chọn di chuyển nghề nghiệp .”
Con người không bằng một cỗ máy?
Không được đào tạo và không được phát triển chuyên môn thực sự, những người lao động trẻ trong những năm gần đây chỉ còn một cách duy nhất để học hỏi kinh nghiệm trong công việc: làm những việc không ai muốn làm.
Về lý thuyết, những công việc nhỏ này nhằm mục đích cho phép những người lao động trẻ làm quen với các quy trình đơn giản hơn và chứng tỏ bản thân đủ năng lực để đảm nhận những công việc khó khăn hơn.
Nhưng chúng thường dẫn đến việc những người lao động trẻ cảm thấy thiếu mục đích trong công việc vì công việc không mang lại cảm giác đóng góp có ý nghĩa cho công ty hoặc một cách để thực sự tiến lên cấp độ tiếp theo.
Nhưng với sự ra đời của trí tuệ nhân tạo AI tại nơi làm việc, mọi thứ đã sẵn sàng.
AI đã bắt đầu lấy đi công việc của người lao động ở mọi lứa tuổi, nhưng sự coi thường đặc biệt của các công ty Mỹ đối với những người trẻ tuổi có nghĩa là nó sẽ ảnh hưởng nặng nề nhất đến những người lao động mới vào nghề.
Phải mất rất nhiều công sức để “đào tạo” một mô hình ngôn ngữ lớn, như kiểu AI họat động trong ChatGPT và các sản phẩm tương tự khác.
Nhưng một khi việc ‘đào tạo’ đó hoàn tất, việc các doanh nghiệp mua một số công cụ công nghệ mới sẽ rẻ hơn rất nhiều so với việc đào tạo một con người thực sự, dẫn tới một hậu quả thật đáng tiếc.
Đối với giới quản lý gần như từ chối mọi trách nhiệm giúp thúc đẩy sự phát triển của người lao động, tất cả những gì quan trọng là liệu có thứ gì đó rẻ và dễ dàng để thay thế con người hay không?
Lập luận của họ cho rằng niềm an ủi đối với những công nhân trẻ này là việc những người am hiểu công nghệ nhất trong số họ sẽ trở thành người điều khiển những cỗ máy mới này.
Trên thực tế, điều này có nghĩa là những người trẻ tuổi sẽ thấy mình phải dọn dẹp vô số lỗi mà các công cụ AI vô danh này sẽ tạo ra, biết rằng họ sẽ nhận được ít tín nhiệm hơn vì các “tác phẩm” đến từ một cỗ máy.
Điều này có khả năng tạo ra một cuộc khủng hoảng nghề nghiệp cho những người trẻ tuổi: Nếu ngay cả một chút tự do nhỏ nhất cũng bị tước khỏi cuộc sống công việc của họ, thì họ sẽ có ít cách hơn để chứng tỏ mình có khả năng đảm nhận những công việc có ý nghĩa hơn.
Các chương trình khuyến mãi sẽ trở thành một trò chơi được yêu thích hơn, với các nhiệm vụ “thực sự” tốt nhất dành cho các nhà ngoại giao hơn là những người làm việc chăm chỉ.
Một mô hình mới được hỗ trợ bởi AI mang lại lợi ích cho những người chơi đã thành danh và trao quyền cho lối văn hóa quản lý yếu kém, thiếu kết nối của Mỹ vốn không đánh giá con người bằng kết quả đầu ra hoặc khả năng sáng tạo thực tế.
Không có gì ngạc nhiên khi các CEO và những người cấp cao nhiệt tình hơn nhiều trong việc tích hợp AI vào nơi làm việc so với các nhân viên bình thường.
Công ty dữ liệu Qualtrics cho biết trong một cuộc khảo sát được thực hiện vào tháng 5 và tháng 6 vừa qua, 64% giám đốc điều hành cho biết họ thấy “tác động tiềm tàng của AI” đối với nơi làm việc của họ rất thú vị.
Chỉ 39% nhân viên nói như vậy, với 46% trong số họ mô tả công nghệ này là “đáng sợ”.
Một cuộc khảo sát khác từ Tập đoàn tư vấn Boston cũng cho thấy sự phân chia tương tự: 62% giám đốc điều hành và lãnh đạo hào hứng với triển vọng sử dụng AI tại nơi làm việc, so với 42% nhân viên.
Mặc dù những người lạc quan về AI có thể dự đoán rằng những công việc mà chúng ta không thể tưởng tượng ngay bây giờ sẽ tồn tại trong 10 năm nữa, nhưng thật khó để tưởng tượng, xét theo cách mà các tập đoàn đã triển khai công nghệ mới, rằng tự động hóa sẽ dẫn đến một xã hội nơi nhiều người có nhiều cơ hội kinh tế hơn.
Một người trẻ tuổi sẽ làm gì trong một văn phòng nơi họ không được đào tạo, cố vấn hoặc được giao công việc “thực sự”? Điều gì sẽ xảy ra khi các công việc ban đầu như nhập dữ liệu và sắp xếp tài liệu được tự động hóa bằng trí tuệ nhân tạo?
Các nghiên cứu cho thấy rằng các công ty đầu tư vào đào tạo nghề và phát triển kỹ năng sẽ hiệu quả hơn và thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Bất chấp bằng chứng này, các công ty gặp khó khăn trong việc nắm bắt giá trị của khoản đầu tư vào nhân viên của họ.
Hai nhà nghiên cứu Ulrich Atz và Tensie Whelan từ Trung tâm Kinh doanh Bền vững Stern của Đại học New York đã viết gần đây trên tạp chí Fortune, các tập đoàn thường không có phương pháp đo lường giá trị của nguồn nhân lực ngoài chi phí lao động đơn giản, nghĩa là các tổ chức coi con người giống như cách họ có thể xem xét. chi phí hóa đơn nước hoặc điện của họ.
“Nền kinh tế thối rữa của Mỹ, nơi mà theo lời Atz và Whelan, “các công ty bị áp lực phải giảm chi phí để trả lại nhiều tiền hơn cho các cổ đông”, coi tăng trưởng doanh thu ngay lập tức là thước đo có giá trị duy nhất cần xem xét, quan trọng hơn giá trị lâu dài của việc phát triển một nhân viên”.
Cách duy nhất để các công ty biết được sự nguy hiểm của tự động hóa sẽ là ví dụ đau lòng khi một công ty phụ thuộc quá nhiều vào AI, như trường hợp xảy ra ở Knight Capital khiến công ty phải đền bù tới 440 triệu USD.
Con người có thể được nâng cao nhờ AI, được AI giúp đỡ, nhưng thay thế họ bằng AI là một quyết định thiển cận của những người không thể nhìn thấy giá trị ở một con người. Cần xem xét liệu có nên thay thế các khoản đầu tư vào AI bằng các chương trình đào tạo và cố vấn thực tế hay không?
Những người trẻ tuổi đang phải đối mặt với một sự tính toán khi mà chi phí học đại học ngày càng tăng và việc thiếu các cơ hội trong tương lai sẽ dẫn tới một nước Mỹ không nhận thấy giá trị của việc đầu tư thực sự vào con người.
Kết quả sẽ là một nền kinh tế yếu hơn với ít người hơn sẵn sàng đón nhận những thách thức thực sự do công nghệ mới đặt ra. Đó là một đề xuất khiến cho tất cả mọi người tham gia đều thua chứ không hề có ai thắng cả.
Theo Hoàng An–Theo Nhà Đầu Tư