Dưới thời vua Lê Thánh Tông, vào năm 1484, Lễ bộ Thượng thư Quách Đình Bảo tâu với Vua nên dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám nhằm khuyến học và tìm kiếm hiền tài trong nước. Vua chuẩn tấu cho dựng bia tiến sĩ
Trạng nguyên đầu tiên có mặt trên bia tiến sĩ ở Văn Miếu
Vua Lê Thánh Tông cho khắc bia tiến sĩ tại Văn Miếu, bắt đầu từ thời nhà Hậu Lê khoa thi năm 1442, Trạng Nguyên khoa thi này là Nguyễn Trực.
Nguyễn Trực xuất thân từ gia đình khoa bảng ở Bối Khê, Thanh Oai, Hà Tây. ông nội là tiến sĩ Nguyễn Bính, cha là tiến sĩ Nguyễn Thì Trung.
Từ nhỏ Nguyễn Trực đã thông minh có tiếng trong vùng, 12 tuổi có tài văn thơ và nằm lòng kinh sử khiến nhiều người nể phục.
Năm 1434, Nguyễn Trực 17 tuổi thi Hương và đỗ đầu tức Giải nguyên. Năm 1442, Triều đình tổ chức kỳ thi Đình, đây là khoa thi đầu tiên của nhà Hậu Lê nhằm tìm hiền tài cho đất nước, do vua Lê Thái Tông ra đề, quan Hành khiển Hàn lâm viện thừa chỉ Nguyễn Trãi chấm thi .
Khoa thi này Nguyễn Trực đỗ đầu tức Trạng nguyên đầu tiên của nhà Hậu Lê, và cũng là Trạng nguyên đầu tiên được khắc vào bia ở Văn Miếu. Ông được vua Lê Thái Tông ban sắc Quốc tử giám thi thư thưởng hàm Á Liệt khanh.
Đỗ Trạng nguyên chẳng bao lâu thì cha mất, Nguyễn Trực về quê chịu tang.
Dưới thời vua Lê Nhân Tông, Nguyễn Trực được trọng dụng, ông nắm giữ chức Triều nghi đại phu Hàn lâm viện học sĩ Vu kỵ úy, sau đó nắm giữ các chức vụ quan trọng khác.
Năm 1454 thì mẹ mất, ông về quê chịu tang mẹ. Nhiều người biết tiếng mà đến bái ông làm sư. Nguyễn Trực đã đào tạo ra nhiều trò giỏi cống hiến cho đất nước.
Sau 3 năm tang mẹ, năm 1457, ông được Triều đình gọi về tiếp sứ thần nhà Minh là Hoàng Gián. Sứ nhà Minh hết mực ca ngợi Nguyễn Trực. Vua cũng cho thợ vẽ truyền thần của ông đặt trong cung để ghi nhớ.
Bài Văn sách xuất sắc về đạo trị quốc và phép dùng người
Bài Văn sách của Nguyễn Trực trong kỳ thi Đình được xem là xuất sắc. Bài Văn sách nói về cách dùng người cùng các biện pháp nhằm “tiến cử bậc quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân” . Bài Văn sách này hiện còn lưu ở thư viện của “Viện nghiên cứu Hán Nôm”. Dưới đây là bản dịch của dịch giả Hoàng Hưng.
Vua ra đề bài Văn sách:
Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, ngoài Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục ra, không thấy còn ai nữa. Sao nhân tài khó tìm vậy! Đến Đế Nghiêu sáng suốt hiểu người là thế, mà trong triều vẫn còn lũ Tứ hung. Sao tiểu nhân khó biết vậy! Cái nạn Giáng thủy, cái họa Hoài sơn (chỉ những nạn lụt lớn) dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn trị thủy đến 9 năm, gây biết bao tai hoạ cho dân. Sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy! Đời Chu được “Kinh thi” ca ngợi là “kẻ sỹ đông đúc”. Văn Vương dựa vào họ mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn thấy nhắc tới Thập loạn. Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng đúng sao? Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp đổ; sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không có chúng!
Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển, trong khi ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm; bọn Ngân, bọn Sát lại gian ngoan chúa ác. Sao người quân từ khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy?
Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét.
Bài Văn sách của Nguyễn Trực:
Thần nghe nói: Xưa nay, bậc thánh nhân trị nước, dẫu sự nghiệp có khác nhau, nhưng tầm lòng của họ, trước sau vẫn là một tiến cử người quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân, ấy là bản tâm của bậc thánh nhân trị nước. Còn như người quân tử bị lui bỏ, mà kẻ tiểu nhân được tiến cử thì đâu phải là nguyện vọng của Thánh nhân.
Xem như đời Đường Ngu, đức sáng lớn lao mà không khinh suất trong việc dùng người: Đặt quan chỉ dùng người giỏi, trao việc chỉ chọn tài năng, cũng như mục đích tìm người giỏi, dùng người tài của triều ta, đều là phép dùng người quân tử, trừ bỏ tiểu nhân vậy?
Hoàng thượng kế thừa nghiệp lớn, trị nước giữ dân, sớm tối cầu hiền để giúp nên cơ nghiệp. Rồi lại đặt khoa thi chọn kẻ sỹ, mở rộng đường cho hiền giả tiến thân, tiến cử bọn thần ở giữa triều đình, hỏi về đạo trị nước và đạo quân tử, tiểu nhân khác biệt. Thần là kẻ ngu muội, đâu dám xét bàn trước bề trên, nhưng đã thẹn vâng chiếu sáng, dám đâu không trung thực phi bầy để đáp lại mệnh lớn của thiên tử…
… Thần cho rằng: Trị nước lấy nhân tài làm gốc, dùng người lấy chữ tín làm đầu.Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng, chỉ thấy sách ghi là “hỏi ở Tứ nhạc” “nghe ở Thập nhị mục”. Tứ nhạc là người coi chung chư hầu bốn phương. Thập nhị mục là các đầu mục của Chín châu, cùng với Vũ là Tư không, Khí là Hậu tắc, Tiết là Tư đồ, Cao Dao là Sỹ sư. Thùy là Công công, Ích là Ngu quan, Bá Di là Trật tôn, Qùy là Điển nhạc, Long là Nạp ngôn, gọi là Cửu quan. Ngoài ra thì không thấy còn ai nữa. “Kinh Thư” nói: Đường Ngu đặt trăm quan. Lại có chỗ ghi: Người có đức được sử dụng, kẻ có tài được trao chức, trăm quan làm khuôn phép, trăm việc đều kịp thời. Chốn miếu đường bàn bạc việc chung, nơi điện bệ lời ca vang dội. Người người đều có đức hạnh của bậc sỹ quân tử; nhà nhà đều có phong tục đẹp đáng nêu khen. Cho đến nhân tài muôn mước đều là thần dân của Hoàng đế. Như vậy, phải đâu là nhân tài khó thấy? Còn như đế Nghiêu sẵn đức văn võ thánh thần, có tài hiểu người sáng suốt nhưng trong triều vẫn còn lũ Tứ hung là bởi sao?
Bởi đạo của kẻ tiểu nhân dễ tiến mà khó lui, dễ dùng mà khó bỏ. Đại gian như trung, đại nịnh như tín, chúng vào hùa kết đảng thậm chí dẫn dắt tiến cử lẫn nhau…
… Nhưng đời Đường ngu, dùng phép “Tam khảo” để bình xét công trạng của các quan. Cho nên, Nghiêu phải dùng Cổn tới 9 năm. Khi xét thấy Cổn không hoàn thành công việc rồi mới phế bỏ, chứ đâu phải là bỏ không sớm? Sau đó, Thuấn theo lệnh Nghiêu giết Cổn mà thiên hạ đều phục, như vậy, phải đâu tiểu nhân khó trừ. Xem thế thì thời Đường Ngu tuy có tiểu nhân, nhưng chúng không làm hại được công cuộc trị nước của Nghiêu Thuấn…
… Thần trộm nghĩ: Thái tổ Cao hoàng đế, theo trời mở vận, khai sáng cơ đồ; sẵn thiên tư thần vũ anh minh, là bậc chúa dựng nền ban phúc, luôn nhớ nỗi gian nan sáng nghiệp, luôn nhớ điều giữ nước khó khăn, đã nhiều phen xuống chiếu cần hiền, mong tìm được nhân tài trị nước, thế mà không có một ai ứng tuyển là bởi cớ làm sao?
Ôi, một xóm nhỏ có mười gia đình, thế nào cũng có người trung tín; một mảnh vườn mươi thước, thế nào cũng có loại cỏ thơm. Huống chi cả nước rộng lớn, có ức triệu người mà lại không có lấy một người tài giỏi há sao?
Thần nghĩ rằng: Tấm lòng của Thái tổ Cao hoàng đế, tức là tấm lòng sáng suốt hiểu người của vua Nghiêu, là tấm lòng khéo biết chọn người của vua Thuấn, cũng là ý đẹp gây dựng người hiền bằng mọi cách của Thành Thang, là phép hay không sót người gần, không quên kẻ xa của Vũ Vương. Bởi lo bậc hiền tài ẩn náu chốn hang cùng, nên hạ chiếu cầu hiền nhiều bận; bởi lo người tài giỏi lánh trong hàng tăng, đạo, nên đặt khoa thi để lựa chọn nhân tài. Thế mà chưa có kết quả là vì sao?
Là bởi tự mình chọn người, là đạo người làm vua, nhưng tiến cử tài năng cho đất nước, lại là chức trách của bậc đại thần. Bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian ghen ghét hiền tài cất nhắc bè lũ. Bản thân chúng đã chả ra gì, thì làm sao tiến cử được nhân tài! Xem thế, dẫu Thái tổ Cao hoàng đế có nguyện vọng cầu hiền, nhưng bị bọn Hãn, Xảo che lấp hiền tài, nên không tìm được. Người xưa có câu: Ai tiến cử nhân tài, sẽ được ban thưởng mức cao nhất. Kẻ nào che lấp tài năng, phải bị trị tội nặng. Vì thế, bọn Hãn, Xảo đã không thoát khỏi sự trừng phạt của Thái tổ Cao hoàng đế. Bọn chúng cũng là lũ Tứ hung đời Ngu, lại Tam giám đời Chu đó! Nhưng dù có bọn tiểu nhân như chúng, vẫn không thể làm hỏng được công cuộc trị nước bấy giờ.
Bệ hạ nối chí trị nước, giữ vững cơ đồ. Công bằng lựa chọn thẩy đều là cựu thần của Thái tổ; tỳ hư dũng mãnh, thẩy đều là nghĩa sỹ của Cao Hoàng (tức Thái tổ Lê Lợi). Đương buổi đầu lên ngôi, đã xuống chiếu mở khoa thi, muốn chọn nhân tài để dựng nền thịnh trị. Thế mà hiệu quả được người vẫn xa vời thăm thẳm; Chân thành cầu hiền, vẫn chưa được ai xứng đáng. Há không phải bọn Ngân, bọn Sát gian ngoan chúa ác gây nên hay sao?
Thần cho rằng: Bọn Ngân, bọn Sát lừa dối bề trên, hãm hại hiền tài, lấy bọn theo mình làm giỏi, lấy bọn múa mép làm tài, mua quan bán tước, hối lộ ngang nhiên, đầy Cầm Hổ ra chân xa, bãi chức quan của Thiên Tước. Những việc như vậy, đâu phải vì nước tiến cử nhân tài, vì vua lựa chọn bề tôi? Do vậy mà người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết.
Nhưng có thực là kẻ tiểu nhân khó biết hay không? Kìa bọn tiểu nhân Ngân, Sát, đã không thoát lưới của bệ hạ, mà quyết định sáng suốt của bệ hạ như Ngu, như Chu, như Thái tổ Cao hoàng đế, tấm lòng ưa thiện, ghét ác đều được thoả đáng mà khắp thiên hạ đều khâm phục vậy.
Ôi, quân tử và tiểu nhân hoàn toàn trái ngược nhau. Đạo quân tử mạnh thì đạo tiểu nhân suy; đạo quân tử suy thì đạo tiểu nhân mạnh. Như âm với dương, như ngày với đêm không thể cùng song song vận hành; như nước với lửa, như thơm với thối, không thể cùng chứa trong một rọ. Cho nên bậc bề trên, mỗi lúc dùng người phải bình tĩnh, phải chuyển tâm, phải thử thách, phải thận trọng mới được…
… Thần nghe nói: Trị nước lấy được người làm gốc, dùng người lấy sửa mình làm đầu. Truyện viết: Trị nước ở người, lấy người do mình. Lại có câu: Nghiêu Thuấn sáng suốt nhưng không biết hết mọi điều; hãy làm việc cần kíp trước; Nghiêu Thuấn nhân từ, nhưng không yêu khắp mọi người, hãy gần gũi người tài trước. Bệ hạ muốn học tập Nghiêu Thuấn thì đạo Nghiêu Thuấn còn đó; muốn học tập Thái tổ, thì phép Thái tổ còn kia. Bệ hạ muốn học Nghiêu, Thuấn, hãy quyết định đạo hiểu người, yêu dân phải làm trước, đạo dùng hiền, trừ gian phải làm kíp. Như vậy thì quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy.
Bệ hạ muốn học Thái tổ hãy tưởng nhớ qui mô sáng nghiệp truyền dòng, phép tắc cầu hiền dùng người. Như vậy thì quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy.
Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, sử dụng kẻ sỹ chính trực để họ đưa vua đi đúng đường, đặt vua vào chỗ không lầm lỗi. Cho nên, Mạnh Tử nói: Không thể chỉ trách cứ người mình dùng, không thể chỉ chê bai việc chính sự. Duy bậc Đại nhân mới biết sửa lỗi lầm của vua. Vua có nhân, không ai không có nhân; Vua có nghĩa, không ai không có nghĩa; Vua chân chính, không ai không chân chính. Trước hết, vua chân chính rồi cả nước sẽ bình yên.
Thần xin bệ hạ hãy đích thân tiến cử hiền thần để bố trí ở quanh mình, như Thuấn tiến cử Cao Dao mà kẻ bất nhân lìa xa. Thành Thang tiến cử Y Doãn mà trăm quan đều thuần nhất; Cao Tông được Phó Duyệt mà tâm trí mở mang: Thành Vương được Chu Công mà cậy nhờ giúp dân. Được như vậy thì chốn dân dã không sót nhân tài mà muôn cõi yên ổn, bản thân mình được hưởng mệnh trời mà triệu dân sinh sôi. cùng là sớm tối nghe lời khuyên can để giúp đức dân, kinh dinh bốn phương để giữ yên đất nước. Như thế thì lo gì quân tử không được tiến cử, tiểu nhân không bị đẩy lùi.
Dẫu vậy, hãy nhớ ba điều Trí, Nhân, Dũng là đạo đức của thiên hạ. Không có Trí thì không thể hiểu người; không có Nhân thì không thể chọn người; không có Dũng thì không thể dùng người. Lấy Trí hiểu người thì có thể hiểu biết rõ ràng và đầy đủ tài năng của họ. Lấy Nhân chọn người thì không bỏ người tài khi họ cùng khốn và chọn được người hết lòng trung thành. Lấy Dũng dùng người thì tin dùng không nghi ngờ và chuyên tâm nghe hết mọi điều. Nếu có cả ba điều Trí, Nhân, Dũng này thì lẽ dùng, bỏ rõ ràng, lòng yêu, ghét chính đáng. Đó chính là ý nghĩa của câu “Chỉ có người nhân mới biết yêu người, biết ghét người” vậy.
Chuyện Hãn, Xảo, Ngân, Sát đã qua rồi. Nay các quan trong triều đình, kẻ sỹ chốn dân đã thực có thể lựa chọn kỹ, sử dụng chuyên, tin cậy chắc. Lại ban phép khảo xét công trạng. Trải đủ ba kỳ khảo xét kỹ rồi mới quyết định thăng hay giáng, khen hay chê. Người nào tốt, kẻ nào xấu, người nào liêm khiết, tài giỏi, siêng năng, mẫn cán, kẻ nào ngu dốt, tham lam, lơ là, lười biếng, giữ ghế ăn hại, không đức, bất tài, gian ngoan chứa ác, đều bộc lộ rõ ràng. Như vậy thì trăm quan đông đảo, đều giữ phong cách người quân tử có đáng lo gì bọn tiểu nhân!
Thần thẹn được gội ân thánh dạt dào đã mấy năm nay, ơn sâu nghĩa dầy, gượng theo kẻ sỹ, kính đối trước triều đình. Thần đau đáu tấm lòng khuyển mã, xiết bao xúc động, dám xin mạo muội thưa trước uy thần. Cúi mong bệ hạ tha thứ cho tội ngông cuồng này.”
Nguyễn Trực làm quan đến tận thời vua Lê Thánh Tông. Bài Văn sách của ông cùng bài Văn sách bàn về chống tham nhũng, chấn hưng giáo dục của Trạng nguyên Vũ Kiệt góp phần giúp vua Lê Thánh Tông xây dựng Đại Việt ngày càng cường thịnh, đây là một trong những giai đoạn thịnh trị bậc nhất trong sử Việt.
Trần Hưng