Một lần nữa, nước Mỹ lại trải qua “bộ phim dài tập” với nội dung luận tội Tổng thống. Thế nhưng, không giống như trước đây, sự việc lần này có thể sẽ tạo ra những tác động đáng kể đối với phần còn lại của thế giới.
*Bài viết thể hiện quan điểm của Carl Bildt. Ông là Bộ trưởng Ngoại giao Thuỵ Điển từ năm 2006 đến 2014 và là Thủ tướng Thuỵ Điển từ năm 1991 đến năm 1994. Bildt là một nhà ngoại giao quốc tế nổi tiếng, ông từng là Đặc phái viên của EU tại Nam Tư cũ, Đại diện cấp cao cho Bosnia và Herzegovina, Đặc phái viên của Liên Hợp Quốc tại Balkan và đồng Chủ tịch Hội nghị Hoà bình Dayton. Ông còn là đồng chủ tịch của Hội đồng Đối ngoại châu Âu.
Trước tiên, hãy so sánh 2 cuộc luận tội thời hiện đại với cuộc điều tra luận tội Tổng thống Trump, xoay quanh lập luận ông Trump đã thuyết phục chính phủ Ukraine điều tra một trong những đối thủ của ông tại đảng Dân chủ là Joe Biden. Đầu tiên là một cuộc khủng hoảng diễn ra sau cuộc đột nhập lúc nửa đêm tại văn phòng của Uỷ ban Quốc gia Dân chủ năm 1972 và nhấm chìm hệ thống chính trị của Mỹ trong 2 năm. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi Richard Nixon từ chức vào tháng 8/1974. Thứ hai là cuộc điều tra của điều tra viên đặc biệt đối với Bill Clinton – đã bị luận tội tại Hạ viện vào năm 1998, nhưng được Thượng viện tha bổng vào năm 1999.
Ở cả hai trường hợp, gốc rễ của khủng hoảng đều đến từ trong nước. Nixon bị cáo buộc lạm dụng quyền lực vì mục đích chính trị trong nước và sau đó gây gián đoạn quá trình điều tra. Clinton thì bị cáo buộc khai man và nhiều lần lạm dụng quyền lực có liên quan đến hành vi cá nhân. Trường hợp luận tội ông Trump thì khác, bởi chính sách đối ngoại của Mỹ ở vị trí trọng tâm.
Mối quan hệ giữa Mỹ và Ukraine không phải là một vấn đề nằm ngoài nước Mỹ. Chính sách của Mỹ với Ukraine được tạo ra từ những cam kết với an ninh châu Âu và quốc tế. Ít nhất là kể từ khi Nga sáp nhập với Crimea và xâm nhập miền đông Ukraine năm 2014, thì việc giúp Ukraine bảo vệ độc lập và chủ quyền là mối quan tâm mang tính chủ chốt trong chính sách ngoại giao của cả Mỹ và EU.
Hơn nữa, không như 2 cuộc khủng hoảng luận tội trước đây, cuộc khủng hoảng lần này có thể gây nhũng nhiễu cho bộ máy chính sách đối ngoại của Mỹ. Ở vụ Watergate, Henry Kissinger – khi đó là ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia, đã nỗ lực để duy trì chính sách đối ngoại diễn ra bình thường, với chiến tranh ở Việt Nam và mối quan hệ giữa Mỹ – Liên Xô vẫn ở vị trí cao trong chương trình nghị sự. Tương tự như vậy, trong suốt quá trình luận tội và điều tra Clinton, các nhà ngoại giao và hoạch định chính sách của Mỹ không phải chịu bất kỳ sự gián đoạn lớn nào.
Rõ ràng rằng, trường hợp tương tự khó có thể xảy ra ở lần này. Các thủ tục tố tụng đã thể hiện rõ những vết rạn nứt sâu sắc giữa một bên là bộ máy chính sách đối ngoại đang nỗ lực áp dụng chính sách Mỹ đã tuyên bố với Ukraine, và một bên là Nhà Trắng đang theo đuổi những mục tiêu khác. Liệu bộ máy đó còn có thể thực hiện vai trò của mình trong vấn đề hệ trọng này hay không đang là một câu hỏi mở. Về phía Nhà Trắng, điều đáng chú ý ở đây là “những người kỳ cựu” lại không xuất hiện. Dưới thời Ngoại trưởng Mike Pompeo, một Bộ Ngoại giao vốn đã không nổi bật giờ đã trở thành một chiến trường chính của cuộc luận tội quy mô lớn hơn.
Hơn nữa, chính ông Trump có thể khiến “bộ phim” luận tội này tồi tệ hơn nhiều đối với phần còn lại của thế giới. Khi luận tội Clinton, Nhà Trắng cam kết duy trì “hoạt động như bình thường” và tránh can dự vào những tranh chấp về đảng phái trong quá trình này. Ông Trump thì có cách tiếp cận hoàn toàn ngược lại, nhất là việc chỉ trích cựu đại sứ Mỹ tại Ukraine trên Twitter, khi bà đang điều trần trước Uỷ ban Tình báo Hạ viện.
Một điều dễ nhận thấy, đó là ông Trump bị “ám ảnh” bởi mọi chi tiết của quá trình điều tra. Mỗi phút ông chia sẻ trên Twitter và theo dõi tin tức trên Fox News sẽ là khoảng thời gian các quan chức của Văn phòng Bầu dục tập trung vào những vấn đề cấp bách khác của quốc gia. Ở điểm này, “bộ phim” của ông Trump khá giống với vụ Watergate – vốn là sự phân tâm lớn đối với Nixon. Tuy nhiên, về việc ông Trump ít bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hiến pháp mà ông bị cáo buộc vi phạm, thì những nỗ lực ngăn cản quá trình tố tụng thậm chí còn gay gắt hơn nữa.
Hành vi của ông có khiến ông bị phế truất hay không sẽ là do quyết định của Thượng viện. Tuy nhiên, dù điều gì có xảy ra, thì cuộc khủng hoảng chính trị của Mỹ cũng diễn ra vào thời điểm bất ổn trên toàn cầu đang gia tăng. Ngoài việc nước Nga đang xét lại, tìm kiếm cơ hội để có được lợi thế và gây bất lợi cho các nước khác, thì còn một Trump Quốc đang trỗi dậy, muốn thể hiện tiềm lực của mình ở châu Á và cả thế giới.
Trong khi đó, Trung Đông lại bước vào giai đoạn bất ổn sâu sắc khác, đến nỗi một tia lửa duy nhất cũng có thể thổi bùng lên ngọn lửa khủng hoảng khác. Triều Tiên đang suy tính về những động thái mới và tiến hành thực hiện thêm những cuộc thử nghiệm tên lửa đạn đạo. Căng thẳng thương mại vẫn chưa dịu xuống, bất chấp Mỹ và Trung Quốc đều cho biết họ đã tiến gần đến thoả thuận giai đoạn 1. Hơn nữa, những cuộc biểu tình đang càn quét nhiều nơi, từ Santiago, Quito đến Beirut và Hồng Kông.
Ở một thế giới có sự kết nối như ngày nay, thì một cuộc khủng hoảng tại bất kỳ nơi nào cũng có thể được Tổng thống Mỹ xem xét và phản ứng chính sách sẽ tạo tác động trên toàn cầu. Gần đây, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã đưa ra những lời cảnh báo về tình trạng “chết não” sắp xảy ra với NATO. Nếu lời dự báo của ông đã thành sự thật vào đầu tháng này, thì tình hình hiện tại còn nghiệt ngã hơn vì mọi thứ đã lên đến cao trào.
Trong các cuộc luận tội trước đây, Mỹ vẫn là một nhân tố chiến lược trên trường quốc tế. Tuy nhiên, nước Mỹ của ông Trump đã được chứng minh là nguồn gốc gây ra sự gián đoạn trên toàn cầu. Liệu vụ bê bối luận tội lần này có diễn ra đến khủng hoảng chiến lược hay chỉ là sự gián đoạn tạm thời? Dù là kịch bản nào thì cả thế giới vẫn không muốn chứng kiến.
Tham khảo Project Syndicate
Giang Ng
Theo Trí thức trẻ