Theo các nhà phong thủy, Hoành Sơn là đại địa và là một trong “Nhị thập bát cảnh” của Bình Định. Nơi đây được cho là có long mạch giúp ba anh em Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trở thành những trang anh hùng cái thế một thời.
Đại địa Hoành Sơn
Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang nằm trong dãy Tây Sơn thuộc địa phận xã Bình Tường ,quận Bình Khê, tỉnh Bình Định. Hoành Sơn không cao (364 m) nhưng dài và rộng. Theo các nhà phong thủy Tàu và địa phương cho biết thì Hoành Sơn là đại địa và hiện tại Hoành Sơn là một trong “Nhị thập bát cảnh” của Bình Định.
Xung quanh Hoành Sơn có nhiều ngọn núi bao bọc, mỗi ngọn mang một dáng dấp cổ vật như Núi Bút (Trưng Sơn), Núi Nghiên (Nghiên Sơn), Núi Ấn (Ấn Sơn), Núi Kiếm (Kiếm Sơn), Núi Trống (Cổ Sơn), Núi Chiếng (Chung Sơn), trước mặt là ba dãy gò cao đá mọc thẳng hàng giống như Long chầu, Hổ phục, phía dưới là hai phụ lưu sông Côn từ phía Tây và phía Bắc chạy ra hợp nhau ở địa đầu thôn Phú Phong như hai cánh tay ôm chặt lấy Hoành sơn. Địa thế đáng gọi là Long bàn Hổ cứ.
Tam kiệt Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ sinh trưởng trong một gia đình nông thôn tại làng Phú Lạc (Bình khê) hướng vọng về dãy Hoành Sơn này. Nhưng rồi thời thế tạo anh hùng, địa linh sinh nhân kiệt hay long mạch do mồ mả tổ tiên mà ba anh em Tây Sơn trở thành những trang anh hùng cái thế, lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn Thanh, thống nhất nước Việt Nam vào cuối thế kỷ 18.
Nhưng theo các vị thức giả ở Bình khê kể lại thì nhà Tây Sơn phát Đế nghiệp là nhờ cuộc đất chôn thân sinh của ba vị anh hùng trên dãy Hoành Sơn.
Huyền thoại về Long huyệt
Trước ngày ba anh em Tây Sơn khởi nghĩa, trong khoảng thời Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) trị vì, có một ông thầy địa lý Tàu thường ngày xách địa bàn đi đi lại lại trong vùng Tây Sơn để tìm phúc địa.
Nguyễn Nhạc thấy vậy theo rình. Một hôm thầy địa lý dường như đã tìm ra long mạch nhưng còn phân vân không biết huyệt khí nằm ở đâu, thầy mới đem hai cành trúc xanh tốt và đều nhau đến cắm ở triền phía Đông dãy Hoành Sơn hướng Phú Lạc (nơi sinh trưởng của ba anh em Tây Sơn) phía Bắc một cây và phía Nam một cây rồi bỏ đi.
Nguyễn Nhạc ngày ngày để ý theo dõi hai cành trúc ấy. Hai tháng sau, cành trúc phía Bắc vẫn sống xanh tốt như khi mới trồng còn cành phía Nam thì héo khô. Nguyễn Nhạc cả mừng vì biết rằng long mạch đã ứng hiện nơi cành phía Bắc, bèn nhổ cây khô phía Nam đem cắm ở phía Bắc và nhổ cây tươi ở phía Bắc đem cắm vào phía Nam.
Đúng 100 ngày kể từ ngày trồng trúc, thầy địa lý Tàu trở lại thấy hai cành trúc đều chết cả, thầy nhún vai, trề môi lắc đầu chê là “giả cuộc” rồi bỏ đi thẳng. Nguyễn Nhạc mừng rỡ về bàn với hai anh em rồi hốt hài cốt của cha đem chôn nơi cành trúc phía Bắc.
Lại cũng có người kể rằng: Có một thầy địa lý Tàu lúc đến tìm địa cuộc ở vùng đất Tây Sơn thường tá túc nơi nhà Nguyễn Nhạc và nhờ Nguyễn Nhạc dẫn đường cho thầy đi tìm long mạch khắp vùng Tây Sơn. Sau nhiều lần xem xét, ngắm nghía, đo đặt địa bàn, thầy chú ý đến dãy Hoành Sơn và tỏ vẻ đắc ý cuộc đất này lắm. Đoạn thầy bỏ đi.
Một thời gian sau thầy trở lại cũng ghé nơi nhà Nguyễn Nhạc mà tá túc. Nhưng đặc biệt, lần này, ngoài chiếc địa bàn thầy lại còn mang theo một chiếc tráp nhỏ ngoài bọc tấm khăn điều. Nguyễn Nhạc đoán biết là thầy Tàu đã tìm ra được long huyệt và… chiếc tráp kia là hài cốt của cha ông mang sang chôn.
Nguyễn Nhạc bèn đóng một cái tráp giống hệt như cái tráp của thầy Tàu và hốt hài cốt của thân sinh mình đựng vào rồi tìm cách đánh đổi. Nhưng thật khó mà đánh đổi được vì cái tráp ấy thầy Tàu luôn luôn mang theo bên người không lúc nào rời. Nguyễn Nhạc hội hai em lại và nghĩ ra một kế.
Đến ngày lành đã chọn, thầy Tàu lẻn mang tráp cùng địa bàn đi lên dãy Hoành sơn. Vừa đến chân núi thì một con cọp lớn trong bụi rậm gầm lên một tiếng dữ tợn rồi nhày xổ ra vồ. Thầy Tàu thất kinh hồn vía, văng tráp và địa bàn mà thoát thân.
Hồi lâu hoàn hồn, không thấy cọp rượt theo thầy mon men quay lại chỗ cũ, thầy mừng quýnh vì chiếc tráp và địa bàn vẫn còn nằm lăn lóc ở đó, thầy vội vã trèo lên nơi long huyệt đã tìm trước mà đào bới chôn cất. Xong, thầy hớn hở trở về với hy vọng chờ ngày “long huyệt vương phát”. Không ngờ chiếc tráp thầy chôn là hài cốt của Hồ Phi Phúc, còn con cọp kia chỉ là người giả mà thôi.
Hai thuyết kể trên tuy có khác về tiểu thuyết nhưng vẫn giống nhau là hài cốt của Hồ Phi Phúc được chôn nơi long mạch trong dãy Hoành Sơn.
Sau khi chôn mộ cha trên Hoành Sơn thì ba anh em Nguyễn Nhạc vùng phát tướng. Mặt mày sáng rỡ, học hành thông thái. Thầy giáo Hiến dạy ba anh em Nguyễn Nhạc vốn là người thông thạo về khoa tướng số, xem biết anh em Nguyễn Nhạc đã vượng thời nên mới đem câu sấm “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công” ra mà khuyên Nguyễn Nhạc. Từ đó ba anh em Nguyễn Nhạc mới mưu đồ đại sự, chiêu tập hào kiệt, lấy dãy Hoành Sơn làm căn cứ.
Mãi cho đến khi Nguyễn Huệ đại thắng 20 vạn quân Thanh tại gò Đống Đa, đuổi Tôn sĩ Nghị chạy về Tàu, lại còn nuôi mộng lớn lấy lại đất Lưỡng Quảng, cầu hôn công chúa Vua Càn Long, tiếng tăm vang dội cả Trung Quốc.
Ông Thầy địa lý năm xưa nhớ lại chuyện cũ, bèn bôn ba sang lại Hoành Sơn xem thử thì quả nhiên cuộc đất tìm ra năm trước đang phát. Hỏi thăm thì đó là mộ của Hồ Phi Phúc thân sinh ba vua Tây Sơn.
Thầy địa lý cả giận vì sự cướp đoạt long huyệt của mình, bèn lập mưu phá long mạch bằng cách bảo Nguyễn Nhạc hãy lấp mấy ngọn phụ lưu Sông Côn ở phía Nam và đào thêm mấy nhánh khác ở phía Bắc để dẫn thủy vào ruộng cho nhân dân cày cấy làm ăn, Nguyễn Nhạc tưởng thật nghe lời.
Những nhánh sông vừa đào xong thì ở Phú Xuân Nguyễn Huệ băng hà ngày 29/7/1792 (có tài liệu lại ghi 6/9/1792). Ở trong Nam thì Nguyễn Ánh chiếm hết đất miền Nam rồi kéo quân ra đánh Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc chống không nổi phải cầu cứu cháu là Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Toản thừa thế cướp thành Quy Nhơn rồi lại sát nhập lãnh thổ của bác vào lãnh thổ của mình. Nguyễn Nhạc tức giận thổ huyết mà chết ngày 13/12/1793.
Nguyễn Huệ mất năm 40 tuổi, làm vua được 5 năm. Con Nguyễn Quang Toản 10 tuổi lên ngôi. Thái sư Bùi Khắc Tuyên chuyên quyền làm bậy, triều thần chia rẽ, tướng tá giết hại lẫn nhau. Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm, sau khi chết, con là Nguyễn Bảo cũng bị Nguyễn Quang Toản giết. Từ đó, nhà Tây Sơn suy dần và đến năm 1802 thì bị Nguyễn Ánh trừ dứt hẳn.