Cứng rắn nhất, vĩ đại nhất chỉ có chính khí, trăm thứ tà không thể xâm phạm, Đạo mãi còn
“Thuở xa xưa, ai đã truyền lại Đạo? Trời đất chưa định hình, dựa vào đâu mà khảo chứng?” Khi Khuất Nguyên bị đi đày, lang thang ngâm vịnh giữa sông núi, ông đã ngửa mặt lên trời than dài, rồi cúi đầu viết nên bài “Thiên Vấn”, với tấm lòng bi thương mà gửi đến trời xanh hơn một trăm câu hỏi. Câu hỏi đầu tiên của ông là, thuở hồng hoang, trời đất từ đâu mà có, ai đã lưu truyền hình thái của vạn vật trong trời đất cho đến ngày nay? Bầu trời mênh mông, vũ trụ bao la, trời đất vạn vật này, ngay từ khi nhân loại để lại dấu chân văn minh đầu tiên, đã tồn tại như thể vĩnh hằng. Câu đố này, có lẽ chỉ có Đấng Tạo Hóa mới có thể giải đáp.
Hơn một nghìn năm sau, vào năm 1282, triều đại đã mấy lần thay đổi, từ thời Chiến Quốc chuyển đến giai đoạn giao thời Tống – Nguyên, một vị tướng Nam Tống xả thân vì nghĩa, trong ngục tù ẩm lạnh của người Nguyên, cũng đã viết nên một bài trường thi. Thân bị giam cầm, nhưng tâm tư lại thông suốt cổ kim, lên trời xuống đất, ông vén mở từng lớp màn sương mê mờ, dường như trong không gian chỉ tám thước vuông mà đốn ngộ được Đạo lớn vô cùng tận. Như thể đang hồi đáp lại câu hỏi ngàn năm không lời giải, ông viết: “Thiên địa hữu chính khí, Tạp nhiên phú lưu hình. Hạ tắc vi hà nhạc, Thượng tắc vi nhật tinh. Ư nhân viết hạo nhiên, Phái hồ tắc thương minh.”
(Tạm dịch: Trời đất có chính khí, ban cho vạn vật muôn hình vạn trạng. Ở dưới là sông núi, ở trên là mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Con người gọi là hạo nhiên, tràn ngập khắp không gian.)
Thân ngay thẳng, trăm tà tự diệt
Vị tướng nổi tiếng của Nam Tống, Văn Thiên Tường, cả đời có hai bài thơ nổi tiếng truyền lại, một trong số đó chính là bài thơ ngũ ngôn trường thiên “Chính Khí Ca” được ông sáng tác trong ngục tù để tỏ chí. Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, thuở hồng mông mới phân định, cái nhẹ mà trong thì thành trời, cái nặng mà đục thì hóa thành đất, thế giới giữa trời đất dần dần sinh ra các loại năng lượng, hoặc những vật chất hữu hình và vô hình. Chúng tương tác với nhau, lại sinh ra năng lượng hoặc vật chất mới. Trong đó có một luồng chính khí đường đường chính chính, bao la vô tận, tràn ngập khắp vũ trụ, ban cho vạn vật thế gian những hình thái cụ thể. Trên trời, nó biến thành mặt trời, mặt trăng và các vì sao sáng tối tương ứng; dưới đất, nó trở thành núi non, sông hồ. Bản thân những sự vật này đã trực tiếp hoặc gián tiếp truyền tải nội hàm của chính khí. Mặt trời mọc ở phương đông, lặn ở phương tây để định ngày đêm bốn mùa, ấy là uy tín và có chứng nghiệm; các vì sao chỉ dẫn phương hướng, báo hiệu sự thịnh suy của nhân gian, ấy là trí tuệ mà không cần lời; núi non trùng điệp rộng lớn, khí thế tĩnh lặng mà hùng vĩ, ấy là cốt cách của bậc nhân đức; nước chảy thì lợi cho vạn vật, mà cam lòng ở dưới vạn vật, ấy là hành vi của bậc thiện lương.
Con người sinh ra ở đời, cảm ứng tương thông với vạn vật, luồng chính khí này khi được ban cho con người, liền trở thành cái mà Mạnh Tử gọi là “hạo nhiên chính khí”. “Khí” vốn là vật chất cơ bản nhất của cơ thể và hoạt động sống, nếu một người có chính khí lẫm liệt, chính nghĩa trường tồn, thì có thể tu thân dưỡng tính, trăm thứ tà không thể xâm phạm, gần với bậc thánh hiền minh triết.
Đúng như Văn Thiên Tường đã viết trong lời tựa của “Chính Khí Ca”, vì ông không chịu hàng nhà Nguyên nên đã bị giam trong ngục xây bằng tường đất suốt hai năm, điều kiện sống vô cùng tồi tệ. Vào mùa hè, môi trường trong tù ẩm thấp, nóng nực và ngột ngạt, khiến ông phải chịu đựng sự dày vò của bảy thứ tà khí. Nước mưa đọng lại làm ướt giường là thủy khí; bùn đất ẩm ướt lâu ngày là thổ khí; trời đột ngột nắng gắt, không có gió là nhật khí; dưới mái hiên nấu nướng, hơi nóng lan tỏa là hỏa khí; lương thực trong kho bị thối rữa, bốc lên mùi ẩm mốc là mễ khí (khí của gạo); người đông đúc chật chội, bốc ra mùi mồ hôi tanh hôi là nhân khí; mùi hôi thối của phân và xác chết thối rữa lan tỏa trong không khí là uế khí. Người bình thường hít thở những luồng khí ô uế này, làm sao mà không mắc bệnh?
Điều gì đã bảo vệ tính mạng của Văn Thiên Tường? Phải chăng ông khỏe mạnh hơn người thường, hay trong cõi âm có thần linh giúp đỡ? Câu trả lời của Văn Thiên Tường là: “Ta thân thể yếu đuối, sống trong hoàn cảnh đó đã hai năm nay, may mắn mà không hề hấn gì, ấy là nhờ có sự tu dưỡng vậy.” Chỉ vì trong lồng ngực có một luồng chính khí không tan, nên có thể lấy một địch bảy, nước lửa không thể làm hại. Thứ mà ông dựa vào, chính là hạo nhiên chính khí của trời đất vậy.
Đạo Dưỡng Khí, Nằm Ở Chính Tâm
Nhân chi sơ, tính bản thiện. Bản tính thiện lương bẩm sinh của con người có lẽ chịu ảnh hưởng từ luồng chính khí trời đất này. Nhưng nếu trong cuộc sống sau này, con người không kiên trì tu dưỡng chính khí, sẽ bị những yếu tố tiêu cực như lợi dục, khổ nạn của thế gian can nhiễu, làm suy giảm sức mạnh của chính khí. Mạnh Tử nói: “Ta giỏi nuôi dưỡng hạo nhiên chi khí của ta.” Nếu muốn giữ cho chính khí luôn tràn đầy, cần phải học theo Mạnh Tử về đạo dưỡng khí: “Cái khí đó, lớn nhất và cứng rắn nhất; dùng sự ngay thẳng để nuôi dưỡng mà không làm hại nó, thì nó sẽ tràn đầy khắp trời đất.”

Chính khí là năng lượng thịnh đại nhất, cương trực nhất trong trời đất. Nếu con người dùng phẩm chất ngay thẳng để nuôi dưỡng chính khí, nó sẽ tràn ngập khắp vũ trụ. Hạo nhiên chính khí liên quan đến đạo nghĩa và sự chính trực của nhân gian, cần con người không ngừng tích lũy đạo nghĩa và đức hạnh thì mới có thể sung mãn không cạn. Nếu không cẩn thận có hành động làm tổn hại đến chính nghĩa, hành vi hổ thẹn với lẽ phải, chính khí sẽ co lại thậm chí suy giảm, và tà khí sẽ theo đó mà đến. Mạnh Tử còn cho rằng: “Chí là tướng soái của khí; khí là thứ lấp đầy cơ thể. Chí đến trước, khí theo sau.” Ý chí là người thống lĩnh của khí. Nếu trong tâm có chính nghĩa, chính khí có thể tràn đầy khắp cơ thể; ngược lại, nếu trong tâm nảy sinh tà niệm, tà khí sẽ lưu lại trên người, chiêu mời những sự vật tà ác từ xung quanh và cả trong không gian rộng lớn hơn.
Truyện “Hà Gian Sinh” trong “Liêu Trai Chí Dị” có ghi lại câu chuyện về một thư sinh giao du với hồ ly tinh. Trong trang trại của thư sinh có một đống rơm lớn như quả đồi, vì người nhà thường lấy rơm để nhóm lửa nên trên đống rơm có một cái hang. Một con hồ ly tinh đã chui vào hang đó sống, còn hóa thành một ông lão đến bái kiến thư sinh. Có một lần, ông lão hồ ly đưa thư sinh đi, nhanh như gió đến một thành phố cách đó ngàn dặm. Trong một tửu lầu, ông lão hồ ly tùy ý lấy rượu thịt của khách cho thư sinh dùng chung mà không ai phát hiện. Thư sinh thấy trên bàn của một người mặc áo đỏ có quả quýt vàng, liền bảo ông lão đi lấy. Ông lão hồ ly lại nói: “Đây là người chính trực, không thể đến gần.” Thử nghĩ mà xem, ông lão hồ ly có thể tàng hình, bản lĩnh cao hơn phàm phu tục tử không biết bao nhiêu lần, nhưng chỉ vì người phàm mang trong mình chính khí mà không dám lại gần. Có thể thấy, sự so sánh mạnh yếu không phân biệt bằng những kỹ năng nhỏ nhặt, mà điều cốt yếu nhất là có chính nghĩa hay không.
Thư sinh vốn là người đọc sách thánh hiền, lập tức cảnh giác, hồ ly tinh có thể tiếp cận mình, ắt là do trong tâm mình có tà niệm. Từ nay về sau, anh ta phải tu luyện một thân chính khí, khiến cho thần quỷ cũng không dám phạm! Khi trong tâm anh ta nảy sinh chính khí, những ảo ảnh do hồ ly tinh dùng yêu thuật tạo ra lập tức biến mất, và con yêu tinh đó cũng chạy trốn mất tăm mất tích.
Trong nhiều tiểu thuyết chí quái khác của lịch sử, các tác giả thường mô tả một tình tiết: trước khi yêu ma hút tinh hoa của con người, chúng luôn hóa thành những cô gái diễm lệ để quyến rũ người phàm, đợi đến khi họ tâm trí rối loạn, tình cảm mê muội, thì đột ngột tấn công, moi tim, cắt cổ mà ăn. Loại quái vật này tự có linh lực siêu thường, nếu muốn hại người, ra tay trực tiếp chẳng phải nhanh gọn hơn sao, tại sao phải bày thêm trò mỹ nhân kế làm gì? Hẳn là điều này cũng liên quan đến chính khí. Khi một người tràn đầy chính khí, ma quỷ cũng giống như ông lão hồ ly kia không dám đến gần, huống chi là làm hại thêm. Do đó, chúng phải làm loạn tâm trí của họ trước, lấp đầy tư tưởng của họ bằng tà niệm và tham dục. Như vậy, trong cái “bình chứa” hữu hạn là cơ thể con người, chính khí sẽ bị suy yếu. Một khi con người không còn chính niệm, cơ thể tỏa ra tà khí, liền tương thông với năng lượng của tà linh, và lũ yêu ma quỷ quái có thể tiếp cận, thực hiện mục đích mờ ám của chúng. Vì vậy, chính khí trường tồn không chỉ có thể chống lại tà khí ở nhân gian, mà còn có thể ngăn chặn sự xâm nhiễu của tà linh cõi u minh.
Nền Tảng Trời Đất, Cội Rễ Đạo Nghĩa
“Trụ đất dựa vào đó mà đứng, cột trời dựa vào đó mà vững.” Vạn vật trong trời đất, tuân theo quy luật của Thiên Đạo mà vận hành biến chuyển cho đến ngày nay, chính là dựa vào năng lượng chính bất biến của vũ trụ. Chính khí khi soi chiếu vào con người và nền văn minh của họ, đối với nội tại thì có thể tu dưỡng thân tâm, cho dù thân xác có chết đi, tinh thần cương trực vẫn lưu danh sử sách; đối với ngoại tại thì có thể bảo vệ gia đình và đất nước, dù triều đại có thay đổi, vua chúa tướng lĩnh đều trở thành cát bụi, nhưng chỉ cần chính khí không suy, nền văn minh năm nghìn năm của Trung Hoa sẽ được bảo tồn và phát huy.
Con cháu Trung Hoa xưa mang trong mình một thân chính khí, lúc nguy nan càng thể hiện rõ lòng trung nghĩa cương trực, khí phách mạnh mẽ, và phẩm chất thanh cao. Khi những kẻ nghịch thần gian tặc đảo lộn phải trái trắng đen, khi các chư hầu phiên trấn chiếm đoạt ngôi báu quốc gia, khi vó ngựa của giặc ngoại xâm tiến vào cõi Trung Nguyên, lịch sử luôn xuất hiện những anh hùng, vào thời khắc sinh tử tồn vong của dân tộc mà đứng lên, dùng sinh mạng để bảo vệ tín ngưỡng trong tâm và chính nghĩa của nhân gian. Đúng như Văn Thiên Tường đã viết trong “Chính Khí Ca”: “Thời cùng tiết nãi kiến, Nhất nhất thùy đan thanh.” (Tạm dịch: Gặp lúc gian nguy mới tỏ rõ khí tiết, Từng người một lưu danh sử sách.) Sau đó, ông đã liệt kê mười hai nhân vật anh hùng trong lịch sử, thân phận bao gồm cả sử quan tốt, trung thần và mãnh tướng. Mặc dù đa số họ đều bị cường quyền và tà ác trong thực tại hãm hại một cách thảm khốc, nhưng không một ai không mang trong mình tấm lòng son và khí phách coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, xả thân vì nghĩa, bảo tồn tinh thần và khí tiết của dân tộc Trung Hoa. Câu chuyện của họ đã hóa thành những bản tráng ca làm rung động lòng người; tên tuổi của họ không chỉ được khắc ghi như hóa thân của chính khí, mà còn tạo nên những huyền thoại về việc tu dưỡng tinh thần chính khí và kế thừa văn hóa chính thống.
Theo ĐKN