Ông Trần Quế Phưởng ở Quế Lâm, Quảng Tây, là Cử nhân khoa thi Hương năm Đinh Dậu, Đạo Quang thứ 17 (năm 1837).
Có một năm, ông cùng chú mình từ Hà Nam trở về nhà, đi qua hồ Động Đình thì gặp gió ngược nên phải dừng thuyền. Bấy giờ, có hàng trăm con thuyền đều đang dừng lại trên hồ. Trong số đó, có hơn mười chiếc thuyền nhỏ của dân lưu vong, trên thuyền có rất nhiều người bị bệnh, có người đã bệnh chết. Thuyền của ông Trần Quế Phưởng lúc đó có mang theo một ít thuốc viên như hoắc hương, lục hợp. Họ lấy những viên thuốc này cho người bệnh uống, rất nhanh liền thấy hiệu quả, vì vậy người đến xin thuốc nườm nượp không ngớt. Về sau, thuốc viên không còn lại bao nhiêu, xem ra không thể đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người. Lúc này, người chú của ông Trần nói: “Thuốc vốn dĩ dùng để cứu người, nếu keo kiệt không chia cho người ta, há chẳng phải là bất nghĩa sao?” Thế là họ đem tất cả thuốc viên chia cho những người đó, kết quả đã cứu sống được mấy mươi người.
Sáng hôm sau, gió đổi chiều thuận, các thuyền đều đồng loạt xuất phát. Đến chạng vạng tối, còn cách Tương Âm hơn mười dặm thì gió đột nhiên dừng lại. Tâm trạng mọi người hơi ổn định một chút, nhưng người lái thuyền lại thấp thỏm không yên, nói rằng lo lắng gió sẽ đổi chiều, đành phải cố gắng tăng tốc hành trình. Khi chỉ còn cách bến chưa đến nửa dặm, hướng gió đột nhiên đảo ngược trở lại, và sức gió ngày càng mạnh. Thêm vào đó, thuyền lớn dễ cản gió nên hoàn toàn không thể cập bờ.
Bất đắc dĩ, người lái thuyền bảo thủy thủ và tất cả mọi người trên thuyền dùng thuyền nhỏ lên bờ trước, sau đó dùng hai sợi dây thừng khổng lồ kéo giữ thuyền lớn, muốn những người đã lên bờ kéo dây thừng để thuyền cập bến. Chủ thuyền lại bảo ông Trần Quế Phưởng nắm chặt bánh lái, đừng để thuyền lệch hướng. Mọi người vừa lên đến bờ, đột nhiên cuồng phong nổi giận, con thuyền rung lắc dữ dội, thân thuyền nhấp nhô lên xuống, bị hất tung cao hơn một trượng, sức người hoàn toàn không thể kiểm soát. Thấy con thuyền lớn dường như sắp bị cuồng phong thổi ra giữa hồ, ai nấy đều kinh hoàng thất sắc. Bỗng nghe thấy phía sau núi có một nhóm người hét lớn: “Mau đến cứu!”
Ngay lúc đó, có bảy, tám mươi người từ sau núi chạy ra, lao xuống nước, tay kéo dây thừng, hô vang một tiếng, mọi người đồng tâm hiệp lực, cuối cùng đã kéo được con thuyền lớn vào bờ. Khi mọi người đang ăn mừng vì được cải tử hoàn sinh, ông Trần Quế Phưởng hỏi thăm họ, thì ra chính là những người lưu dân đã nhận thuốc viên của ông ngày hôm qua. Vì thuyền của họ nhỏ hơn, nên đã cập bờ từ sớm trước khi gió nổi lên. Đây quả thực là có Thần linh dẫn dắt an bài, cứu người chính là cứu mình, thật không sai chút nào.
Dưới đây xin kể thêm một câu chuyện khác:
Từng vì một thương nhân mà giữ gìn công đạo giữa chợ, sau này được thương nhân đó cứu mạng cả gia đình
Ở Hán Dương (nay là một trong ba trấn của Vũ Hán) có một ông lão họ Tống, thi đỗ Cử nhân vào năm Tân Tỵ thời Đạo Quang. Ông tính tình chính trực, trọng nghĩa khí, nhiều đời sống ở trấn Hán Khẩu, người địa phương đều rất ngưỡng mộ ông. Trong trấn có rất nhiều thương nhân từ nơi khác đến, họ mang theo vốn liếng đến đây để mưu cầu chút lợi nhỏ. Nhưng một số quan lại giảo hoạt ở địa phương, nhân lúc các thương nhân có việc phải lên quan phủ, chúng luôn tìm cách gây khó dễ, tìm mọi cách để bóc lột họ. Ông Tống vốn tính đạm bạc, làm việc quang minh lỗi lạc, rất coi thường hành vi của đám quan lại này, ông thường đứng ra giữ gìn công đạo, giúp đỡ các thương nhân thoát khỏi tình thế khó khăn.
Có một thương nhân họ Hoàng đến từ Quảng Đông, vì một sự việc ở chợ mà bị lừa gạt tống tiền, phải đối mặt với họa bất trắc. Lúc này, ông Tống đi ngang qua chợ, tình cờ gặp phải sự việc này, ông đã đứng ra giữ gìn công đạo cho thương nhân họ Hoàng, giúp ông giải quyết khó khăn. Khi ông Tống rời đi, cũng không hỏi thương nhân kia là ai, còn vị thương nhân họ Hoàng thì vô cùng cảm kích ân đức của ông Tống. Về sau, ông Tống chuyển đến sống ở Vũ Xương, tình cờ lại làm hàng xóm với vị thương nhân họ Hoàng.
Mùa đông năm Nhâm Tý, miền Nam xảy ra phản loạn, loạn binh tiến lên phía bắc đánh chiếm Vũ Xương. Ông Tống đóng chặt cửa nhà, dự định cả gia đình sẽ tuẫn nạn. Thương nhân họ Hoàng biết chuyện, liền đục xuyên tường sang nhà ông Tống, nói với ông: “Loạn binh là người Quảng Đông, tôi biết nói tiếng Quảng (tiếng Việt), tôi sẽ cầu xin giúp ông, đảm bảo ông bình an vô sự. Nếu không được, lúc đó ông tự vẫn cũng chưa muộn.”
Ông Tống tạm thời nghe theo lời khuyên của vị thương nhân. Thế là, thương nhân họ Hoàng cử một người làm công cũng là người gốc Quảng Đông, ngày đêm canh giữ cửa nhà cho ông Tống, vì vậy gia đình ông Tống mới không bị loạn binh quấy nhiễu. Ông Tống xây một bức tường kép trong một căn phòng bí mật, giấu gia đình mình vào bên trong, đồng thời cũng thu nhận những người thân khác. Hai tháng sau, loạn binh rời thành bỏ trốn, cả gia đình ông Tống bảo toàn được tính mạng, tất cả đều nhờ vào sự giúp đỡ của vị thương nhân họ Hoàng. Con trai của ông Tống sau này thi đỗ Cử nhân, được tuyển chọn làm Tri huyện, đến nhậm chức tại một huyện ở Sơn Tây.
Theo ĐKN