Nền văn minh Maya đã lụi tàn nhưng từ những vết tích còn lại có thể thấy họ có trình độ phát triển văn hóa, nghệ thuật, thiên văn học, toán học, lịch pháp… cao đến mức đáng ngạc nhiên. Đặc biệt, điều khiến người hiện đại kinh ngạc nhất chính là những dự ngôn xa xưa của cư dân Maya về tương lai dường như rất chính xác, hiện vẫn đang được lưu truyền và chứng nghiệm cho tới ngày nay…
Một tấm bia đá của người Maya phát hiện ra trên đỉnh núi Queragua cho chúng ta biết những thông tin cách đây 90 triệu, thậm chí đến 400 triệu năm. Điều đó có nghĩa là cách đây 400 triệu năm, nền văn minh Maya đã tồn tại rồi. Nhưng 400 triệu năm trước Trái đất đang ở Đại Trung sinh, hoàn toàn không có dấu chân con người.
Người hiện nay cho rằng, văn hóa người Maya có liên quan đến người Mexico hiện nay. Thực tế nó hoàn toàn không có liên quan đến người Mexico. Người Mexico chỉ là người lai giữa người Tây Ban Nha và thổ dân. Còn văn hóa Maya là thuộc về thời kỳ văn minh lịch sử lần trước, còn gọi là văn minh tiền sử, nhân loại thời kỳ đó đã bị hủy diệt ở Mexico rồi, chỉ còn thiểu số người đã trốn đi. Thực ra, nền văn hóa Maya này có quan hệ trực tiếp với người Mông Cổ.
Tại sao nói văn hóa Maya có mối quan hệ đến người Mông Cổ?
Trong lịch sử của nền văn minh lần này, chạy trốn bức hại và di cư lớn thì có người Do Thái, được Moses dẫn ra khỏi Ai Cập đến Trung Đông định cư. Rất nhiều tín đồ Thanh giáo trốn tránh cuộc bức hại ở châu Âu mà đã chạy đến Bắc Mỹ. Trong thời kỳ lịch sử lâu dài, trên lục địa châu Á đã xảy ra những sự kiện kinh thiên động địa sau:
Ở thời kỳ rất xa xưa, trên lục địa châu Mỹ, khi hình thành lục địa này thì có các di vật văn minh tồn tại trên các tinh cầu khác. Bản thân nền văn minh trên lục địa châu Mỹ này cũng trải qua nhiều lần thay thế nhau. Ngày nay, tra cứu từ trang Wikipedia, chúng ta cũng có thể tìm thấy được một số vết tích:
“Trong thời kỳ Băng hà gần đây nhất thì mực nước biển đã thấp đủ để cho con người và các động vật khác di cư từ châu Á sang Bắc Mỹ bằng cách đi bộ dọc theo cái mà ngày nay người ta gọi là eo biển Bering, nằm ở phía bắc của biển này. Người ta gọi nó một cách chung nhất là “cầu đất liền Bering” và người ta cũng tin rằng đây chính là lối đi đầu tiên của loài người vào châu Mỹ“.
Đây là những điều mà con người thông qua các biện pháp khoa học biết được. Nhưng cũng theo khoa học hiện đại thì ở thời kỳ Băng hà dường như hoàn toàn không có con người. Hơn nữa cứ cho rằng thời đó có con người đi nữa thì để có thể vượt qua môi trường giá lạnh và khắc nghiệt như thế, hẳn họ phải có trình độ văn minh rất cao, nếu vậy thì họ còn đi săn để làm gì? Giống như con người hiện đại sống trong các thành phố thì ai còn muốn đi săn nữa? Mặc dù thuyết đi săn này còn nhiều điều nghi vấn, nhưng vì nguyên cớ gì khiến những người có trình độ văn minh cao như thế này phải di cư số lượng lớn đến châu Mỹ và sáng tạo ra nền văn minh huy hoàng như thế, đồng thời để lại một loạt các ẩn đố để cho người hiện nay chờ phá giải, để suy nghĩ về lịch sử ngày nay? Rất nhiều nghi vấn đặt ra chưa có lời giải đáp. Tuy nhiên, thông qua công năng túc mệnh thông của một người tu luyện có thành tựu, thì tình hình thời đó như sau.
Nói về thời kỳ Băng hà, thực ra khái niệm này không phải giống như chúng ta vẫn tưởng tượng về một thời kỳ vô cùng giá lạnh, băng tuyết mù trời, không có sức sống, nó hoàn toàn không phải như thế.
Ở trong lòng châu Á hiện nay, khu vực phía bắc Trung Á khi đó văn minh nhân loại phát triển cao độ. Bởi vì đối với các khu vực khác nhau, các vị Thần sẽ căn cứ vào các nhân tố và diện mạo núi sông ở từng nơi mà tạo ra nhân chủng khác nhau sao cho phù hợp. Vùng giữa châu Á này thuộc phạm vi nhân chủng Mông Cổ. Khi đó nền văn minh đã phát triển đến giai đoạn vô cùng cao. Họ đã có thể du hành đến các hành tinh trong hệ mặt trời, dựa vào ý niệm di chuyển vật thể. Về thiên văn cũng rất xuất sắc, lịch pháp vô cùng hoàn hảo.
Lúc này Thần cũng thấy nền văn minh lần này của họ cần kết thúc. Do họ đã có lịch pháp và kỹ thuật khá hoàn thiện nên Thần có ý điểm hóa những người có đạo đức cao thượng, để họ đem những người mà họ quen biết rời khỏi nơi này, đi đến bờ bên kia của biển, men theo nguồn nước lục địa đến vùng ấm áp định cư. Còn vùng đất văn minh vô cùng hoa lệ, vô cùng huy hoàng này, dưới Pháp lực của Thần, trong chớp mắt đã biến mất tuyệt vô tông ảnh.
Những người có đạo đức cao thượng đó lần lượt dẫn theo khoảng 200.000 người gồm bạn bè thân thích, cấp trên, cấp dưới… theo ý chỉ của Thần rời khỏi quê nhà mà tổ tiên họ đã vất vả gây dựng hàng vạn năm. Nỗi lòng buồn rầu đau khổ đó khó mà diễn tả hết. Nhưng bản năng sinh tồn của sinh mệnh khiến họ ý thức được sâu sắc rằng, ở đây đã là đống đổ nát, nếu muốn sống sót thì ắt phải rời khỏi nơi này. Thế là họ dắt díu nhau lên con đường trường chinh của cuộc đại di cư chủng tộc.
Tiền bạc và địa vị lúc này đã trở thành không quan trọng nữa. Bởi vì trong quá trình di cư, những thứ này chẳng thể dùng được, chỉ còn dựa vào yêu thương lẫn nhau mới giúp ích cho sự tồn vong của chủng tộc. Bởi vì khu vực Bắc Á hiện nay khi đó đều là núi rừng rậm rạp, dã thú rất nhiều, đều là những dã thú khổng lồ, như loài khủng long vậy. Hơn nữa do trình độ phát triển văn minh khác nhau nên ở đó còn có các bộ lạc mông muội và dã man.
Đoàn người nườm nượp men theo bờ biển lên phía bắc, dọc đường đã trải qua bao gian nan nguy hiểm. Lúc thì động vật khổng lồ đến ăn thịt họ, lúc thì tộc người dã man đến ăn thịt họ. Hơn nữa họ không quen thủy thổ, hoàn toàn không dự tính trước được những tai nạn giáng xuống, số người của họ cứ dần dần ít đi.
Khi bộ tộc còn lại khoảng 10.000 người, vào một đêm mưa gió, những bầy khủng long xuất hiện ở khu rừng rậm rạp mênh mông. Một trong những người thủ lĩnh thấy mọi người đều trải qua mệt nhọc kéo dài, hoàn toàn không còn cách nào để kháng cự với cuộc tấn công của nhiều khủng long như thế này nữa. Thế là ông đứng lên cầm bó đuốc chạy qua trước mặt bầy khủng long, ý đồ dẫn chúng đuổi theo ông. Hơn chục chàng trai dũng mãnh thấy ông bỏ mình vì bộ tộc nên cũng dũng cảm cầm đuốc chạy cùng ông, dẫn theo mấy chục con khủng long đuổi theo họ. Cuối cùng họ lần lượt bị khủng long ăn thịt.
Mấy vị thủ lĩnh còn lại thấy vậy vội vàng giục bộ tộc lên đường. Họ vừa đi vừa khóc trong đêm mưa gió, lại tiếp tục con đường trường chinh dài dằng dặc tìm quê hương mới…
Một lần ở bên bờ biển Bering hiện nay, họ gặp phải một bầy người dã man. Lúc này đội ngũ của họ chỉ còn lại khoảng 2.000 người. Bầy người dã man đó bắt mấy chục người chuẩn bị ăn thịt. May thay lúc này có một cô gái xinh đẹp và can đảm trong đoàn bước ra nói với thủ lĩnh: “Hôm qua con mộng thấy con phải dùng nụ cười để giải cứu người bộ tộc mình”.
Thế là cô không hề sợ hãi chạy đến nơi bầy người dã man, dùng nụ cười thuần thiện của mình để thuyết phục và tỏ ý với người dã man hãy thả những người họ đã bắt ra. Kết quả là những người dã man như bị hút hồn, đã thả mấy chục người đó… cuối cùng cô gái này trở thành anh hùng của bộ tộc.
Chỉ có sự kính tín Thần linh và tình yêu thương mới có thể giúp con người vượt qua kiếp nạn
Lúc này, biển Bering sóng cao nước sâu không thể nào đi qua được. Nhìn tộc người bị biển ngăn chặn, mấy vị thủ lĩnh bàn bạc, chỉ có Thần giúp mới có thể vượt qua được kiếp nạn này. Thế là toàn bộ bộ tộc bắt đầu tọa thiền, dùng cái tâm thành kính nhất cầu khẩn Thần để họ có thể vượt qua biển. Khi ấy bỗng chốc gió lớn nổi lên 3 ngày 3 đêm, nhưng họ vẫn không dao động. Sau đó lại mưa lớn 3 ngày 3 đêm, đã có người hoài nghi Thần. Lúc này sấm sét xuất hiện. Có người bị sét đánh chết. Có người thấy tình hình như thế này lại dao động. Sau đó trời đổ mưa đá, có người bị mưa đá rơi chết.
Khi 7 ngày 7 đêm đen kịt không thấy mặt trời qua đi thì cuối cùng ánh nắng rực rỡ đã xuất hiện. Không biết ai đó đến bờ biển Bering xem, quả là có cảm giác như: “Con đê đứt đoạn ngàn thước, nước rút đá lộ nhấp nhô”. Một số người thử lội xuống nước, nơi nước sâu nhất ngập đến ngực, có thể đi qua được. Thế là những người còn lại (còn khoảng 800 người) dìu dắt nhau đi qua eo biển Bering, vượt qua kiếp số lớn nhất trong cuộc đời họ. Tuy đã qua eo biển Bering rồi, đến được lục địa châu Mỹ rồi, nhưng nền văn minh khi đó ở lục địa châu Mỹ ngoài một số di tích còn lưu lại thì dường như là một vùng hoang dã. Dã thú thường xuất hiện, không hợp thủy thổ, thiếu thực phẩm… tất cả đều là mối lo lắng trong lòng của bộ tộc tiền sử này.
Những người đã trải qua bao ma nạn như thế này, lúc này họ đã hiểu sâu sắc rằng để tiếp tục sinh tồn được cần làm được 2 điểm: Tuyệt đối tín Thần và giữ được bản tính thiện lương, thuần chân. Đây là điều quan trọng biết bao.
Từ đó họ đã trở nên rất thiện lương và hòa mục. Bất kể lúc nào, ở đâu, làm bất kể việc gì thì đầu tiên là nghĩ đến Thần, nghĩ đến kính Thần như thế nào. Giữa người với người sống với nhau cũng ngày càng hòa hợp. Khi họ thực sự làm được những việc này, họ phát hiện ra trí tuệ của họ đã lớn lên rất nhiều so với trước đây. Một thế hệ cuối cùng đã già đi, một thế hệ khác lại bắt đầu kế thừa chí hướng của thế hệ trước, xây dựng quê hương, làm phong phú nền văn minh. Do chủng tộc sinh sôi nảy nở, dần dần trải qua mấy chục đời, bóng dáng của họ đã rải rác khắp châu Mỹ. Ở vùng lục địa Trung Mỹ họ cảm thấy gần với Thần nhất nên đã tập trung ở đó nhiều hơn. Ở đây họ đã khai sáng ra nền văn minh Maya khiến người hiện đại đời sau phải trầm trồ kinh ngạc.
Do trình độ văn minh lúc đó của họ rất cao, đạo đức cũng rất tốt, vào lúc huy hoàng nhất, Thần đã có ý để cho họ sáng tạo ra lịch mặt trời (dương lịch), đồng thời có dự ngôn nói rõ về thời kỳ hiện nay của trái đất, sẽ có một thời kỳ tịnh hóa canh tân, người không tốt sẽ bị đào thải, người tốt còn lại sẽ tiến vào thời kỳ huy hoàng mới, và còn để họ tính toán chính xác ra ngày tháng cụ thể. Đồng thời cũng để cho người hiện đại – vốn đã quá mê tín vào khoa học hiện đại và thuyết Tiến hóa, những chứng cứ vật thực và ghi chép văn hiến, để con người đứng trước nền văn minh rất cao đã từng tồn tại này mà phản tỉnh suy nghĩ lại về lý luận của mình và những gì mình đã làm.
Sau này, người Maya của lần văn minh này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của họ, rồi sau đó họ bị Thần dùng các phương thức khác nhau đào thải, chỉ còn lại một bộ phận rất ít.
Mãi cho tới năm 1526, một đoàn thám hiểm Tây Ban Nha đã tìm đến bộ lạc Maya (người Maya lúc đó đã không còn là người Maya tiền sử nữa mà là những người Maya còn sót lại sau khi bị đào thải, trình độ kỹ thuật, văn hóa, văn minh của họ đều không thể sánh được với người Maya tiền sử). Người Maya khi ấy rất hiếu khách, họ phái một người thông dịch đứng ra kết nối, kết quả là các nhà thám hiểm này bị văn hóa Maya làm cho kinh sợ, đã đốt hết tất cả các điển tịch của người Maya. Từ đó người Maya đã mất đi sự thần bí trong cái nhìn của lịch sử. Thực ra sứ mệnh của họ là ‘nối tiếp’ với văn minh hiện đại, sau khi đã hoàn thành rồi thì cũng là cần đào thải, thì phải xuống dưới lòng đất hoặc núi sâu nào đó, không để người hiện đại tìm được họ nữa.
Ngày nay, khi nghĩ đến những dự ngôn chính xác của người Maya, chúng ta vẫn không khỏi kinh ngạc về những thành tựu huy hoàng của họ trên các phương diện như: thiên văn, toán học, giải phẫu, cũng không thể không đề cập đến quá trình di cư chủng tộc đầy ly kỳ của họ, một lộ trình đã phủ đầy phong trần của tuế nguyệt.
Nhìn lại ngày nay, đạo đức của nhân loại lần này đã băng hoại toàn diện, môi trường thiên nhiên bị tàn phá thảm hại chưa từng có. Trong lịch sử, mỗi lần gặp phải tình trạng như thế này thì chính là lúc những người có đạo đức rất xấu phải chịu nhận sự đào thải. Thế nên nếu muốn tiếp tục tồn tại và phát triển ở trên trái đất này thì cần phải tín Thần, kính Thần, quan tâm yêu thương lẫn nhau chứ không được lãnh đạm thờ ơ, lại càng không được hùa theo thế thời hỗn độn mà trượt theo băng hoại và ‘giậu đổ bìm leo’.
Nhân loại có thể vượt qua số kiếp này hay không thì phải xem con người đối xử với Thần như thế nào, đối xử với đồng loại như thế nào, đối xử với thiên nhiên và vạn sự vạn vật như thế nào… Tất cả đều phụ thuộc vào thái độ và sự lựa chọn của mỗi cá nhân.
Theo Tiểu Liên, Secretchina – Trung Dung biên dịch