Bà Dorothy Louise Eady, được biết đến với biệt danh Omm Sety hoặc Om Seti (16/1/1904 – 21/4/1981) từng là người trông coi đền thờ Seti I ở Abydos và là người vẽ đồ án cho Ban Cổ vật Ai Cập. Bà đã trở nên đặc biệt nổi tiếng với tuyên bố về một kiếp sống trước đây trong vai trò một nữ tu sỹ vào thời Ai Cập cổ đại, cũng như với các cuộc nghiên cứu lịch sử phong phú của bà tại thành cổ Abydos.
Tổn thương não bộ khiến cô bé 3 tuổi nhớ lại tiền kiếp
Dorothy Louise Eady sinh ra tại London vào năm 1904, nhưng lại lớn lên ở một thị trấn ven biển. Năm lên 3, sau khi ngã cầu thang, cô bắt đầu có những biểu hiện kỳ lạ, khi yêu cầu được “đưa trở về nhà”. Điều này đã tạo nên một số phiền toái trong những năm tháng thơ ấu của cô.
Giáo viên trường Chúa Nhật (một loại hình giáo dục tôn giáo của Cơ Đốc giáo) của Dorothy đã yêu cầu cha mẹ cô đừng để con mình đến lớp, vì cô đã so sánh Cơ Đốc giáo với tôn giáo “ngoại đạo” của Ai Cập cổ đại. Cô từng bị đuổi khỏi một trường nữ sinh ở Dulwich, nam London sau khi cô từ chối hát một bài thánh ca cầu Chúa “nguyền rủa bọn người Ai Cập da sậm”. Cô thích đến dự các buổi thánh lễ Misa của Cơ Đốc giáo tại nhà thờ vì nó khiến cô nhớ lại “Tôn giáo cũ” của mình. Sau khi biết được chuyện này nhờ trao đổi với cha mẹ cô, một linh mục đã ngăn cấm cô tiếp tục đến dự các buổi Thánh lễ.
Một lần khác, cô được cha mẹ đưa đến Bảo tàng Anh, và ngay khi vừa nhìn thấy một bức ảnh chụp trong công trình mô phỏng đền thờ Ai Cập thời Tân Vương Quốc, cô bé đã thốt lên: “Đây là nhà của tôi!” nhưng lại hỏi “Những cái cây đâu rồi? Khu vườn đâu rồi?”. Ngôi đền này thuộc về Pha-ra-ông Seti I, cha của Pha-ra-ông Ramesse II. Cô bé chạy xung quanh sảnh trưng bày cổ vật Ai Cập, hôn lên chân của các bức tượng, và tỏ ý muốn “được ở lại với đồng hương của mình”.
Từ năm 10 đến năm 12 tuổi, cô bé đã nhiều lần viếng thăm bảo tàng, dành hầu hết thời gian rảnh của mình ở đó. Chính ở đây cô đã dần làm quen với ông E.A Wallis Budge, người quản lý các món cổ vật Ai Cập trong bảo tàng. Ấn tượng mạnh mẽ với nhiệt huyết và vốn kiến thức của cô bé về Ai Cập cổ đại, ông đã khuyến khích Dorothy đi học chữ tượng hình. Cô bắt đầu tham gia một lớp về chữ tượng hình; và người giáo viên đã rất kinh ngạc với khả năng tiếp thu nhanh chóng của cô đối với một môn học thông thường cần nhiều năm để nắm bắt. Khi được hỏi làm thế nào cô có thể học những ký hiệu phức tạp nhanh chóng đến vậy, Dorothy trả lời là cô bé không thật sự học chúng từ con số không, mà là nhớ lại ngôn ngữ cổ cô đã quên từ lâu.
Chính trong khoảng thời gian này, khi cô được 15 tuổi, cô đã bắt đầu liên tục được ghé thăm trong giấc mộng bởi một linh hồn tên là Hor-Ra. Linh hồn này bảo cô rằng cô là đầu thai của một người phụ nữ Ai Cập tên là Bentreshyt, một nữ tu sĩ ở ngôi đền Seti I tại thành phố Abydos, Thượng Ai Cập. Hor-Ra sẽ thường xuyên xuất hiện trong giấc mộng của cô bé trong suốt khoảng thời gian 12 tháng và kể cho cô nghe câu chuyện về kiếp trước của mình. Dorothy đã viết nhật ký giấc mơ, và khi xong xuôi, cô đã viết được khoảng 70 trang về kiếp trước của mình, tất cả đều bằng tiếng Ai Cập cổ đại:
Bentreshyt (Nghĩa: Đàn thụ cầm hân hoan) trong bối cảnh này ám chỉ một xuất thân bình dân, mẹ cô là một người bán rau và cha cô là một người lính trong giai đoạn trị vì của Pha-ra-ông Seti I (1290 – 1279 TCN). Khi Bentreshyt lên ba, mẹ cô qua đời, và cô đã được đưa vào đền Kom-el-Sultancha vì cha cô không thể gánh vác nổi trọng trách này. Tại đó, Bentreshyt đã được nuôi nấng để trở thành một nữ tu sĩ. Năm 12 tuổi, vị Quan tư tế tối cao (High Priest) đã đưa cho cô hai lựa chọn: hoàn tục (quay trở về thế giới bên ngoài) hoặc ở lại và trở thành một trinh nữ thánh hiến. Vì không hoàn toàn hiểu rõ điều này, cùng lúc không có một lựa chọn khả thi nào khác, cô đã phát lời thề nguyện.
Trong vòng hai năm kế tiếp, Bentreshyt đã được giao đóng vai trong buổi kịch nghệ thường niên miêu tả lại những nỗi khổ hình và sự phục sinh của thần Osiris, một vai diễn mà chỉ có những nữ tu sĩ đồng trinh đã hiến dâng cả đời mình cho nữ thần Isis mới có được. Một ngày nọ, vua Seti I đã gặp gỡ và trò chuyện với cô. Họ trở thành người yêu, và Bentreshyt đã phản bội lời thề của mình, khi hai người “ăn ngỗng sống” (một thuật ngữ Ai Cập cổ đại tương tự như cách nói “ăn trái cấm”). Khi Bentreshyt có mang, cô đã nói với vị Quan tư tế tối cao về danh tính của cha đứa trẻ. Đáp lại, vị Quan tư tế tối cao bảo với cô rằng tội phản bội nữ thần Isis là cực kỳ nghiêm trọng, và cái chết sẽ là hình phạt tất yếu tại phiên xét xử. Không muốn Seti phải đối mặt với vụ tai tiếng này, Bentreshyt đã kết liễu mạng sống của chính mình.
Khi lên 15, Dorothy đã kể lại một lần viếng thăm của linh hồn Pha-ra-ông Seti. Hành vi của cô, cùng với tật mộng du và các cơn ác mộng gặp phải, đã khiến cô bị đưa vào viện điều dưỡng một vài lần.
Khi ra trường vào năm 16 tuổi, Dorothy đã ghé thăm nhiều viện bảo tàng và di chỉ khảo cổ trên khắp Vương quốc Anh.
Trong thần thoại Ai Cập, thần Osiris cai trị âm phủ sau khi bị người em họ Set sát hại. Set giết Osiris để độc chiếm ngai vàng. Vợ Osiris, Isis, đã làm ông sống lại đủ lâu để giúp bà thụ thai để họ có thể có một đứa trẻ phục thù cho cha vào một ngày nào đó. Trong một số phiên bản của truyền thuyết, Isis đã phải đi tìm các bộ phận cơ thể của Osiris, vốn đã bị Set thả rải rác khắp nơi, để giúp ông trở lại nguyên dạng.
Đứa trẻ được thụ thai trong quá trình phục sinh ngắn ngủi của Osiris tên là Horus, thường được miêu tả với cái đầu đại bàng. Horus sau đó đã thách đấu Set và giành chiến thắng. Các vị thần phán rằng không ai có thể đoạt lấy ngai vàng bằng hành vi sát hại, nên họ đã phủ nhận hành vi xưng vương của Set.
Cô từng được vào vai nữ thần Isis than khóc cho cái chết của thần Osiris, dựa trên bản dịch của Andrew Lang:
Chúng ta hát cho cái chết của Osiris, than khóc cho thủ cấp của ngài
Ánh sáng đã rời bỏ thế gian, thế giới trở nên tăm tối
Giăng trên bầu trời đầy sao là những sợi tơ của sự hắc ám
Chúng ta hát về Osiris, Ngài đã qua đời
Nước mắt của ngươi, vì tinh tú của ngươi, ngọn lửa của ngươi, dòng sông của ngươi đều nhỏ lệ;
Hãy nhỏ lệ, những đứa con của sông Nile, hãy nhỏ lệ – vì vị vua của các người đã mất.
Chuyển đến sống ở Ai Cập
Nhưng mãi cho đến năm 1931, khi cô bé Dorothy ngày nào được 29 tuổi, và trở thành vợ của Eman Abdel Meguid, một sinh viên người Ai Cập mà cô quen biết, thì cô mới có thể du lịch đến Ai Cập. Khi đặt chân đến đây, Dorothy đã hôn lên mặt đất và nói rằng mình đã trở về nhà.
Năm 1935, người chồng Eman nhận được một công việc giảng dạy tại Iraq, nhưng Dorothy không muốn rời xa Ai Cập, nên họ đã ly hôn, và đứa con trai ở lại với cô. Hai năm sau, cô dọn đến sống ở làng Nazlat el-Samman bên cạnh Đại kim tự tháp Giza. Ở đây cô đã gặp nhà khảo cổ học Selim Hassan rồi trở thành thư ký và người vẽ phác họa cho ông tại Cục Cổ vật Ai Cập (Egyptian Antiquities Department). Cô là nữ nhân viên đầu tiên của Cục và là một người phụ tá đắc lực cho ông Hassan nói riêng và những học giả Ai Cập nói chung, khi chỉnh sửa lại lỗi tiếng Anh của họ và viết các bài viết bằng tiếng Anh cho những người khác. Từ một người phụ nữ người Anh với trình độ học vấn hạn chế, cô đã trở thành một người vẽ phác họa hàng đầu và một cây viết đầy ý tưởng và tài năng, khi tự mình sản xuất những bài viết, luận văn, tài liệu chuyên khảo, và các cuốn sách bao quát một phạm vi rộng, có trí tuệ và chất lượng tốt.
Cô đã học hỏi được từ các học giả này những kỹ năng khảo cổ, đổi lại họ nhận được lợi ích nhờ chuyên môn của cô về các ký tự tượng hình và tranh vẽ. Với những cống hiến to lớn của mình cho ông Hassam, cô đã được nhà khảo cổ học Ahmed Fakhry chọn làm trợ lý nghiên cứu trong dự án khảo cổ của mình tại Dashur.
Năm 1956, sau khi Dự án Nghiên cứu Kim tự tháp Dashur của ông Ahmed Fakhry kết thúc, Dorothy bất chợt lâm vào cảnh thất nghiệp. Ông Fakhry đã gợi ý rằng cô nên “leo lên Đại kim tự tháp; và khi cô trèo lên đến đỉnh, hãy quay sang phía Tây để bày tỏ lòng mình với Thần Osiris và hỏi Ngài “Quo vadis” (Ngài đang đi đâu vậy)? Ông đã đưa cho Dorothy Eady hai sự lựa chọn: nhận một công việc với mức lương hậu hĩnh tại Cục Lưu trữ Cairo (Cairo Record Office); hay một công việc có mức lương thấp tại thành phố Abydos trong vai trò một nhân viên vẽ phác thảo. Dorothy đã chọn cái thứ hai. Cô cho biết linh hồn Pha-ra-ông Seti I đã chấp thuận quyết định này. Theo lời kể của cô, vị Pha-ra-ông này đã tuyên bố rằng “bánh xe định mệnh” đang xoay chuyển; và đây là thời điểm thử thách. Nếu cô giữ được tiết hạnh cô sẽ có thể bù đắp lại tội lỗi của Bentryshyt năm xưa.
Ngày 3/3/1956, bà Omm Sety, lúc này đã 52 tuổi, đã trở về Abydos để tiếp nhận công việc phác thảo của mình. Ngay khi bắt đầu công việc, bà đã ngay lập tức cho thấy vốn hiểu biết của mình về ngôi đền Seti I, vượt xa những gì được ghi chép trong sách vở, trên thực tế không thể được tìm thấy ở bất kỳ nguồn tư liệu hiện hữu nào. Một lần nọ, giám đốc Cục Cổ vật đã quyết định kiểm chứng những lời tuyên bố của Omm Sety về một kiếp sống trước đây của bà tại khu vực này. Đứng trong một căn phòng gần như tối om với một loạt các bức tranh treo tường, bà được yêu cầu phải chỉ ra vị trí và nhận diện mỗi bức tranh dựa trên ký ức tiền kiếp của mình. Mỗi lần bà đều có thể xác định chính xác vị trí, nhận diện và miêu tả chi tiết mỗi bức tranh, dù rằng bà chưa bao giờ nhìn thấy chúng trước đây, và tại thời điểm đó chưa có bức tranh nào hay địa điểm chính xác của chúng từng được công bố trong bất kỳ tư liệu nào.
Omm Sety có khả năng xác định các di tích khảo cổ dựa trên các “ký ức tiền kiếp” của mình. Bà cho rằng phải có một khu vườn nằm cạnh ngôi đền Seti I. Quả nhiên, sau khi khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một khu vườn đúng theo miêu tả của bà Omm Sety. Bà cũng cung cấp các chi tiết về ngôi đền Osirion nằm phía sau đền Seti I và tuyên bố rằng Tượng nhân sư cổ hơn nhiều, rất nhiều so với nhận định của các chuyên gia.
Khả năng tìm kiếm các di chỉ và cổ vật thất lạc của bà đã trở nên nổi tiếng đến nỗi một nhà Ai Cập học người Anh từng tuyên bố rằng: “Nếu Omm Sety vẫn còn ở đây tôi sẽ nghe theo chỉ dẫn của bà khi tìm kiếm các thứ, vào bất cứ lúc nào, hơn là nghe theo những trang thiết bị tối tân nhất hiện nay”. Câu nói này của ông đã nhận được sự ủng hộ của các đồng nghiệp.
Bà từng kể cho các nhà khảo cổ học nghe hình thức của những lời cầu nguyện và nghi thức truyền thống. Bà cũng biết được nội dung trên mảnh giấy cói tôn giáo ngay cả trước khi đọc chúng. Những miêu tả của bà về những công trình, hình chạm nổi, v.v.. từ các ký ức trong tiền kiếp đã liên tục được xác nhận thông qua các cuộc khai quật.
Tuy nhiên, ngoài vốn kiến thức sâu sắc và lạ thường của bà về Ai Cập cổ đại, Omm Sety cũng có những biểu hiện thần kỳ khác. Bà thường dậy sớm vào mỗi buổi sáng, ngâm mình trong bể nước tại đền thờ Osireion (ngay đằng sau đền Seti I) để tẩy tịnh thân thể, sau đó đi chân trần vào điện thờ để cầu nguyện mỗi ngày. Bà không sợ rắn hổ mang, có khả năng yểm bùa chúng và dùng tay không “bón” cho chúng ăn mà không sợ bị cắn. Người dân quanh vùng kể lại rằng bà từng nhảy xuống bể nước tại đền thờ Osireion để chữa bệnh cho bản thân. Bà tuyên bố rằng chính bể nước thần thánh này đã giúp bà khỏi bệnh viêm khớp, viêm ruột thừa, và bỏ không phải đeo kính mắt. Người dân xung quanh dường như cũng hưởng lợi khi các căn bệnh của họ được chữa lành, từ các vấn đề về hô hấp cho đến chứng nghe, nhìn khó khăn. Bà cũng đã từng tự chữa chứng nhiễm trùng mắt nhờ sử dụng các câu thần chú được khắc trên các bức tường ngôi đền.
Omm Sety miêu tả đền thờ Seti I giống như tiến vào một cỗ máy thời gian, khi quá khứ trở thành hiện tại và bộ óc hiện đại sẽ gặp khó khăn để hiểu được một thế giới trong đó ma thuật ‘hiện diện’. Bà tuyên bố rằng những cảnh tượng được khắc họa trên những bức bích họa trong đền thờ vẫn “sống động” trong tâm trí của người Ai Cập cổ đại ở hai cấp độ. Thứ nhất, chúng khiến hoạt động được miêu tả trong tranh trường tồn mãi mãi. Lấy ví dụ, bức tranh khắc họa một Pha-ra-ông dâng bánh mỳ cho thần Osiris sẽ khiến hành động này được tiếp diễn mãi mãi chừng nào bức tranh này tồn tại. Thứ hai, bức tranh có thể trở nên sống động bởi linh hồn của thần, nếu như một người đứng trước bức tranh và niệm tên của vị thần đó.
Ngay cả khi được nghỉ cho hưu vào năm 1969, bà vẫn đảm nhiệm vai trò cố vấn bán thời gian cho Cục Cổ vật, hướng dẫn du khách thăm quan đền thờ Seti I và giải thích ý nghĩa biểu tượng của các cảnh tượng được vẽ trên tường.
Các nhà nghiên cứu không thể tin vào điều này
Nhiều nhà nghiên cứu không muốn tin vào câu chuyện của Omm Sety, nhưng họ cũng không thể phủ nhận những điều bà nói. Bà có được những hiểu biết mà ngay cả những chuyên gia công tác tại Ai Cập trong nhiều năm cũng không thể có. Một trong số đó là nhà Ai Cập học nổi tiếng người Anh Kenneth Kitchen. Tuy không muốn công khai thừa nhận điều này, nhưng những tài liệu viết tay của ông cho thấy ông tin vào khả năng của Omm Sety. Nhà Ai Cập học Nicholas Reeves cũng đã cân nhắc đến những mộng cảnh của bà Omm Sety khi tìm kiếm lăng mộ của Hoàng hậu Nefertiti. Theo bà, lăng mộ này nằm tại Thung lũng của các vị vua (Valley of the Kings). Bà nói:
“Tôi từng một lần hỏi Bệ hạ (Pharaoh Seti I) vị trí của lăng mộ. Ngài nói: “Vì sao nàng muốn biết?”. Tôi nói tôi muốn khai quật nó, và Ngài nói: “Không, nàng không được làm thế. Chúng ta không muốn người khác biết thêm điều gì về gia tộc này nữa”. Tuy vậy Ngài đã nói với tôi lăng mộ đó nằm ở đâu, và tôi có thể tiết lộ một chút như thế này. Nó nằm trong Thung lũng của các vị vua, khá gần lăng mộ của Pha-ra-ông Tutankhamun, tại một vị trí không ai có thể ngờ tới”, Omm Sety cười. “Và rõ ràng là nó vẫn còn nguyên vẹn”.
Trong hàng thập kỷ, Omm Sety đã trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhà nghiên cứu. Câu chuyện của bà về sự sống và cái chết vào thời Pha-ra-ông Seti I đã chạm đến trái tim của rất nhiều người. Rất nhiều khám phá mới đã được thực hiện dựa trên chỉ dẫn của bà. Theo thông tin do bà cung cấp, các nhà nghiên cứu, dẫn đầu bởi giáo sư Otto Schaden, đã phát hiện được lăng mộ KV63 trong Thung lũng của các vị vua vào năm 2005, vốn nằm ngay cạnh lăng mộ của Pha-ra-ông Tutankhamun, và chứa các thi thể của những người phụ nữ từ triều đại thứ 18, tuy nhiên không có xác ướp nào được phát hiện.
DKN