Tư Mã Thiên viết trong “Khuất Nguyên Liệt Truyện”: “Thượng Thiên là khởi đầu của con người; cha mẹ là gốc rễ của con người. Khi con người cùng quẫn thì quay về gốc rễ, vì vậy khi lao khổ mệt mỏi, không ai không kêu Trời; khi bệnh tật đau đớn bi thương, không ai không gọi cha mẹ.”
Ý nghĩa là, Thượng Thiên là khởi nguồn của con người; cha mẹ là căn bản của con người. Khi con người gặp hoàn cảnh khó khăn, luôn tưởng nhớ đến Thượng Thiên và cha mẹ, do đó khi lao khổ mệt mỏi, không ai không kêu trời; khi bệnh tật và nội tâm đau buồn, không ai không gọi cha mẹ.
Khuất Nguyên gặp phải ưu sầu mà viết “Ly Tao”. Nhạc Phi, người chịu nỗi oan thiên cổ, trước khi thụ hình đã hô lớn: “Trời đất sáng soi!” (“Tống sử – Nhạc Phi truyện”). Hai vị anh hùng dân tộc được hậu thế kính ngưỡng và tưởng nhớ này đều tin rằng, dù cho nhất thời phải chịu oan ức ở nhân gian, thì Thiên lý cuối cùng vẫn là công chính.
Từ xưa đến nay, các bậc quân vương thánh hiền luôn phụng mệnh trời và tuân theo Thiên đạo.
“Đế Vương Kỷ” chép: “Vua Nghiêu đặt trống can gián, vua Thuấn dựng cây phê bình.” Vua Nghiêu treo một chiếc trống lớn trong cung đình, nếu thần dân có ý kiến về chính sự, có thể đánh trống để can gián; Vua Thuấn dựng một cột gỗ trước cửa triều đình, để thần dân viết lên đó những lời phê bình chính sự, để quân vương tiếp thu.
Đến thời nhà Đường, “Trống Đăng Văn” (Dengwen Gu) được chính thức thiết lập bên ngoài cổng cung và do quan thự quản lý. “Cựu Đường Thư – Bách Quan Chí” ghi lại: “Phàm ai có oan ức mà không được xét xử, có thể đến triều đường đánh Trống Đăng Văn.” Bất cứ ai có oan khuất không được giải bày đều có thể đến trước triều đường để đánh trống này. Chế độ này đã được các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh kế thừa.
“Bao Thanh Thiên” thiết diện vô tư
Trong dân gian, vốn đã có cách nói “Thanh Thiên”. Ngạn ngữ Hán có câu: “Trời xanh thăm thẳm không thể dối lừa.” “Thanh Thiên” (trời xanh) có nghĩa là bầu trời quang đãng không mây, được dùng để ví với quan thanh liêm, “Thanh Thiên đại nhân” cũng trở thành hóa thân của việc giữ gìn chính nghĩa và làm sáng tỏ Thiên lý. Nhắc đến Thanh Thiên đại nhân, người nổi tiếng nhất trong dân gian chính là Bao Chửng “Bao Thanh Thiên” của phủ Khai Phong.
Bao Chửng thiết diện vô tư, không sợ cường quyền. Tương truyền Bao Chửng có “Long đầu trảm”, “Hổ đầu trảm” và “Cẩu đầu trảm”, ngay cả hoàng thân quốc thích phạm pháp cũng bị hỏi tội như thường. Vụ án “Trảm Phò mã” được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, còn vụ án đàn hặc Quách Hòe thì được ghi lại trong chính sử.
Trong “Tống sử – Bao Chửng truyện”, Tống Nhân Tông có một người con gái nuôi, phong hiệu là Tào Quốc Trưởng công chúa, không may qua đời khi còn trẻ. Vú nuôi của bà là Quách Hòe, do hầu hạ công chúa lâu năm trong cung mà trở nên đắc thế, can thiệp vào các công việc trong cung và chuyện hôn nhân, nhận hối lộ. Bao Chửng dâng sớ đàn hặc Quách Hòe, Tống Nhân Tông không vui. Bao Chửng nói: “Tội của Quách Hòe liên quan đến cương thường pháp kỷ, không thể không trị tội.” Nhân Tông bất đắc dĩ phải hạ chiếu bắt giam trị tội. Kết quả là Quách Hòe sợ tội nên đã treo cổ tự sát.
Bao Chửng sống giản dị, không có tài sản dư thừa. Có người mang vàng đến hối lộ, ông ném vàng xuống đất và nói: “Sao có thể dùng những đồng tiền này làm vấy bẩn sự trong sạch của ta!” Vì Bao Chửng cả đời thanh liêm chính trực, dám thực thi pháp luật, thẳng thắn can gián, nên bá tánh trong thiên hạ đều gọi ông là “Bao Thanh Thiên”.
Thực ra, đời Tống có rất nhiều vị quan thanh liêm nổi tiếng, Khấu Chuẩn cũng là một trong số đó.
“Khấu Thanh Thiên” được Hoàng đế ví như Ngụy Trưng
Khấu Chuẩn (961–1023) là một tể tướng và quan thanh liêm nổi tiếng vào đầu thời Bắc Tống, ông nổi tiếng với sự cương trực và dám can gián, chủ trương mạnh mẽ kháng Liêu, và có rất nhiều ghi chép trong sử sách. Ông được lịch sử gọi là “Khấu Thanh Thiên”.
Khấu Chuẩn khi còn trẻ đã tài trí hơn người, thông thạo “Tả thị truyện”, “Công Dương truyện” và “Cốc Lương truyện”. Năm 19 tuổi, ông thi đỗ tiến sĩ, từ một chức quan nhỏ ở địa phương từng bước lên đến chức Tể tướng. Khi ông nhậm chức tri huyện ở huyện Thành An phủ Đại Danh (nay thuộc Đại Danh, Thành An, tỉnh Hà Bắc), ông cai trị địa phương, cần mẫn yêu dân, đã có danh xưng “Thanh Thiên”.
Theo “Tống nhân dật sự vị biên”, khi Khấu Chuẩn xét xử các vụ án, thái độ của ông rất nghiêm khắc, không vị nể riêng tư, dù là con cháu của tầng lớp quyền quý phạm pháp cũng phải bị trừng trị theo pháp luật. Người dân vỗ tay tán thưởng, nói rằng “Đây mới thực là Thanh Thiên”.
“Tống sử” ghi lại rằng, có lần Khấu Chuẩn bất đồng ý kiến với hoàng đế ngay trên điện, Tống Thái Tông tức giận đứng dậy, Khấu Chuẩn đã kéo tay áo hoàng đế mời ngài ngồi xuống, đợi Khấu Chuẩn nói xong sự việc mới bãi triều. Thái Tông vì thế mà ca ngợi: “Có được Khấu Chuẩn, cũng như Đường Văn Hoàng (tức Đường Thái Tông) có được Ngụy Trưng vậy.”
Văn hóa truyền thống Trung Quốc chú trọng “Thiên nhân cảm ứng”. Mỗi khi gặp hạn hán nghiêm trọng, đều được xem là lời cảnh báo của thiên tượng. Mùa xuân năm Thuần Hóa thứ hai (991), trời đại hạn hán, Thái Tông mời các cận thần để hỏi về những thiếu sót trong chính sự, mọi người đều nói đó là số trời.
Khấu Chuẩn nói: “Trong ‘Thượng Thư – Hồng Phạm’ từng nói, mối quan hệ giữa trời và người cũng giống như tiếng và vang, hình với bóng, cảm ứng lẫn nhau. Triệu chứng của đại hạn hán, e rằng là do hình pháp áp dụng không công bằng.” Thái Tông nghe xong rất tức giận, đứng dậy trở về cung. Một lát sau, lại triệu Khấu Chuẩn đến hỏi tại sao ông lại nói như vậy? Khấu Chuẩn yêu cầu triệu các đại thần của Nhị phủ đến. (Nhị phủ chỉ Trung thư môn hạ (phụ trách văn chính) và Xu mật viện (phụ trách quân chính), hợp xưng là “Nhị phủ”.)
Khi Thái Tông triệu tập Nhị phủ đến, Khấu Chuẩn mới nói: “Cách đây không lâu, Tổ Cát và Vương Hoài đều vi phạm pháp luật và nhận hối lộ. Quan nhỏ Tổ Cát nhận hối lộ số tiền nhỏ thì bị xử tử; trong khi Vương Hoài vì là em trai của Phó Tể tướng Vương Miễn, đã trộm cắp tài vật của kho quỹ lên tới hàng chục triệu, nhưng chỉ bị đánh trượng, rồi lại được phục hồi chức quan. Đây nếu không phải là bất công, thì là gì?”
Thái Tông hỏi Vương Miễn, Vương Miễn chỉ còn biết cúi đầu nhận tội. Thế là Thái Tông nghiêm khắc khiển trách Vương Miễn, đồng thời cho rằng Khấu Chuẩn là người tài có thể trọng dụng, lập tức thăng ông làm Tả gián nghị đại phu, Xu mật phó sứ, sau đó đổi sang làm Đồng tri Xu mật viện sự.
Đến thời Tống Chân Tông tại vị, năm Cảnh Đức nguyên niên (1004), quân Liêu ồ ạt xâm lược, bao vây Doanh Châu, khiến triều đình trong ngoài chấn động hoang mang. Khấu Chuẩn kiên quyết chủ trương vua ngự giá thân chinh, kết quả là hoàng đế đã giành chiến thắng tại Thiền Uyên, ký kết “Minh ước Thiền Uyên”. Trận chiến này đã giúp triều Tống duy trì hòa bình hơn một trăm năm, công lao của Khấu Chuẩn là không thể phai mờ. Vì vậy, dân chúng đã sáng tác bài ca dao: “Thanh Thiên Khấu Công, xã tắc tái hưng.” (Quan Khấu Thanh Thiên, đất nước hưng thịnh trở lại).
Vị quan tư pháp Nam Tống mang lại phúc lợi cho bách tính
Tống Từ là một quan viên tư pháp thời Nam Tống, ông là tác giả của “Tẩy Oan Tập Lục”, đây là tác phẩm pháp y học có hệ thống sớm nhất trên thế giới.
Thời Tống Chân Tông (năm 1002) bắt đầu thiết lập chức “Đề điểm hình ngục công sự”, gọi tắt là “Đề hình”. Tống Từ được gọi là Đại Tống Đề hình quan, chuyên quản lý việc giám sát tư pháp và phúc thẩm các vụ án.
Tống Từ viết trong lời tựa của “Tẩy Oan Tập Lục”: “Ta nhiều lần đảm nhận chức vụ Đề hình án sát, không có tài cán gì khác, chỉ riêng việc kiểm nghiệm án kiện, ta luôn xem xét kỹ lưỡng nhiều lần, chưa từng dám có chút lơ là.”
“Trong việc xét xử các vụ án, hình phạt nặng nhất là xử tử hình, mà mấu chốt của các vụ án tử hình là tình trạng ban đầu, và việc phán đoán tình trạng ban đầu phụ thuộc nhiều nhất vào việc khám nghiệm. Bởi vì sự sống chết của mạng người, oan khuất có được giải bày hay không, đều phụ thuộc vào điều này.”
Tống Từ cho rằng, sai sót trong các vụ án, phần lớn là do ngay từ đầu đã có sai lầm; việc khám nghiệm xảy ra sai sót, đa phần là do thiếu kinh nghiệm, rèn luyện chưa đủ. Ông thậm chí còn tự mình khám nghiệm thi thể và viết nên “Tẩy Oan Tập Lục”. Ông hy vọng các đồng liêu đều có thể vì dân mà rửa oan, mang lại phúc lợi cho bách tính, điều này cũng có công đức như y sư cứu người cải tử hoàn sinh vậy.
Nhìn chung trong lịch sử, những người có đức hạnh đều hành sự thuận theo ý trời. “Thiên lý rành rành không thể lừa dối”, từ Trống Đăng Văn, “Tẩy Oan Tập Lục” cho đến các vị Thanh Thiên đại nhân lưu danh sử sách, tất cả đều thể hiện sự kính sợ Thần linh của người xưa, cũng như sự trân quý của việc giữ gìn chính nghĩa, chủ trì công đạo và giải oan cho người dân.
Theo ĐKN