Sau khi Thánh Thiên mất, cuốn Dụng binh yếu chỉ vẫn được lưu truyền không trọn vẹn, sau này trở thành bí kíp giúp những anh hùng bảo vệ Giang Sơn.
Không biết đã có bao nhiêu người đã dùng đến Dụng binh yếu chỉ, nhưng một số nguồn dã sử có ghi nhận 2 trường hợp sau:
Chỉ dùng 2 thiên trong “Dụng binh yếu chỉ” khiến quân Ngô thất điên bát đảo
Sau khi Lĩnh Nam mất vào tay nhà Hán, người Việt lại phải trải qua thời gian dài bị đô hộ. Đến năm 246, một người phụ nữ là Triệu Thị Trinh đã nổi lên chống lại ách đô hộ của nhà Ngô (thời Tam Quốc), quân sĩ đều tôn kính gọi là Bà Triệu.
Bấy giờ khi Bà Triệu khởi binh thì chỉ dùng tới 2 thiên của Dụng binh yếu chỉ là “đoản binh” và “trận pháp” nhưng đã đánh nhiều trận khiến quân Ngô điên đảo. Từ căn cứ núi Nưa, Bà Triệu cho quân tiến xuống đánh khắp vùng đồng bằng, đánh đâu thắng đó khiến binh tướng nhà Ngô kinh hoàng. Từ đó quân Ngô có câu rằng:
Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà vương nan.
Nghĩa là:
Múa giáo đánh hổ dễ,
Đối mặt vua Bà khó.
Cuối cùng nhà Ngô phải cử Lục Dận (cháu của danh tướng Lục Tốn) sang Giao Châu. Lục Dận dùng vàng bạc của cải mua chuộc các thủ lĩnh địa phương và tù trưởng. Họ vì lợi trước mắt mà nhận của cải rời đi, khiến nghĩa quân của Bà Triệu không còn đủ số lượng để đương đầu với quân Ngô.
Bà Triệu không giữ được căn cứ, phải rút vào núi Tùng và tuẫn tiết trên núi.
“Dụng binh yếu chỉ” góp phần đánh tan quân Mông Thát
Đến thời nhà Trần thì Dụng binh yếu chỉ vốn có 36 thiên chỉ còn lại 5 thiên là Thủy chiến, Đoản binh, Hư thực, Dụng gián, Trận pháp.
Bấy giờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn học rất sâu rộng, ông nghiên cứu tất cả binh thư của Đại Việt, Trung Nguyên, Chiêm thành, Mông Cổ, trong đó có cả Dụng binh yếu chỉ, rồi soạn ra hai bộ sách:
Bộ “Binh thư yếu lược” gồm 18 thiên.
Bộ “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” gồm có 9 trận pháp. Biến hóa chín lần chín là 81 thế trận.
Phần phụ lục “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” có ghi chép 5 thiên còn sót lại trong Dụng binh yếu chỉ của Thánh Thiên.
Bộ “Binh thư yếu lược” cùng “Vạn Kiếp tông bí truyền” được dùng để truyền dạy cho các tướng lĩnh là Hoàng thân nhà Trần. Những binh pháp trong đó đã được sử dụng để Đại Việt 3 lần đánh tan quân Mông Thát.
Tuy nhiên cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền” hiện cũng đã thất truyền, chỉ còn được biết tới nhờ lời đề tựa cho sách của Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng chép đoạn Hưng Đạo Vương nhắn nhủ cho con cháu đời sau về cuốn sách này:
“Sau này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng suốt mà thi hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ đó.”
Phải chăng cũng chính vì việc trao truyền phải dựa vào sự lĩnh ngộ nên những tinh hoa binh pháp mà Hưng Đạo Vương soạn ra mới dần dần bị mai một mất? Đây cũng là một nguyên nhân đáng chú ý, bên cạnh một nguyên nhân khác…
Vì sao có “lớp bụi dày” suốt 20 thế kỷ”
Nói về Dụng binh yếu chỉ, chúng ta luôn phải lưu ý rằng truyền kỳ về cuốn cổ thư này thuộc về huyền sử hoặc dã sử mà không được chính sử ghi chép lại. Điều này thật ra cũng có nguyên nhân riêng của nó.
Sau khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần thì lại không thể chống nổi sự xâm lược của quân Minh. Năm 1407 sau khi đánh bại nhà Hồ, tướng nhà Minh là Trương Phụ cho đốt nhiều nguồn sử liệu, các sách quý bị lấy hết chở về thành Nam Kinh, trong đó bao gồm cả toàn bộ các nguồn sử liệu trước đây, kể cả các tác phẩm của Hưng Đạo Vương.
Các sách sử của nước ta chép sau thời kỳ này không còn có nhiều căn cứ nữa, phải dựa vào cả một số sách sử Trung Quốc để ghi chép lại; vì thế mà những trận đánh vang dội của các nữ tướng thời Lĩnh Nam cũng như Dụng binh yếu chỉ đều không được ghi chép lại.
Đơn cử như Đại Việt Sử ký toàn thư dựa vào cuốn sử nhà Nguyên là “Kinh thế đại điển tư lục” mà cho rằng Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản bị tử trận. Nhưng thực tế tất cả các gia phả họ Trần đều ghi chép rằng người tử trận là Hoài Nhân Vương Trần Quốc Kiện, còn Hoài Văn Hầu sau này được phong thành Hoài Văn Vương và sống thọ đến 92 tuổi.
Các nguồn sử liệu nước ta bị lấy về Nam Kinh. Sau đó, trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, vào tháng 12 năm 1937, quân Nhật chiếm được thành Nam Kinh, nhiều tài liệu và sách quý bị lấy đi về mang về Nhật Bản, trong đó có cả các sách sử của người Việt. Điều này lại phủi thêm một lớp bụi mù lên lịch sử nước nhà. Chỉ có một số rất ít nhà nghiên cứu có điều kiện, cất công đi tìm hiểu từ Trung Quốc qua Nhật Bản, cộng thêm cơ duyên trùng hợp mới may mắn tìm hiểu được một phần sự thật của câu chuyện mang nhiều màu sắc huyền sử này.
Trần Hưng