Vào thế kỷ 19, người Pháp xâm chiếm Đại Nam, mở đầu bằng trận đánh tại bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng. Nhiều người cho rằng đây là cuộc đụng độ đầu tiên giữa người Việt và Tây phương.
Thế nhưng thực tế là hơn 200 năm trước, vào thế kỷ 17, người Tây phương đã có cuộc đụng độ với người Việt cả trên bộ lẫn trên biển…
Bối cảnh
Vào thế kỷ 17, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã mở thương cảng sầm uất nổi tiếng thế giới lúc đó ở Hội An, rất nhiều thương gia phương Tây đến buôn bán tại đây. Đầu tiên là người Bồ Đào Nha với nhiều chuyến tàu mua bán.
Đặc biệt, một người Bồ Đào Nha là Jean De La Croix đã giúp chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mở lò đúc đại bác, giúp trang bị quân đội Đàng Trong thêm hùng mạnh, không chỉ đánh bại cuộc xâm lăng của chúa Trịnh mà còn giúp Cao Miên đánh bại quân Xiêm La (tức Thái Lan ngày nay), mở đường cho cuộc di dân vào Nam.
Người Hà Lan cũng muốn nhanh chóng có chân ở Đại Việt. Năm 1637, họ được chúa Nguyễn Đàng Trong cho mở hiệu buôn ở Hội An. Trong khi đó tại Đàng Ngoài họ được chúa Trịnh cho mở hiệu buôn ở Phố Hiến (Hưng Yên).
Việc cạnh tranh giữa các thương nhân Bồ Đào Nha và Hà Lan khiến họ quay sang dựa vào mối quan hệ với chính quyền bản địa nhằm chiếm lợi thế trong kinh doanh. Người Bồ Đào Nha có quan hệ tốt với chúa Nguyễn Đàng Trong nên tìm cách nhờ cậy chúa Nguyễn; các thương nhân Hà Lan thì tìm cách gây ảnh hưởng đến chúa Trịnh với lời hứa giúp đỡ về vũ khí.
Nửa đầu thế kỷ 17, hai chúa Trịnh – Nguyễn đua nhau tăng cường sức mạnh cho thủy quân. Chúa Trịnh bố trí 68 tàu chiến tại cửa sông Cả. Chúa Nguyễn cũng có cả trăm tàu chiến ở cửa sông Nhật Lệ.
Chúa Trịnh đã 3 lần đem đại quân tiến đánh Đàng Trong nhưng đều thất bại. Nhận thấy Đàng Trong được người Bồ Đào Nha giúp đúc đại bác, uy lực rất mạnh , nên chúa Trịnh cũng tìm cách có được vũ khí phương Tây từ người Hà Lan.
Chúa Trịnh Tráng vì mưu lợi cho mình mà sẵn sàng nhượng cả đất đai cho người Hà Lan. Nhà sử học Li Tana đã tìm được bức thư chúa Trịnh Tráng gửi cho Toàn quyền Công ty Đông Ấn Hà Lan vào năm 1637:
“… Các ông có thể cho chúng tôi 2 hoặc 3 chiếc tàu, hoặc 200 lính thiện xạ… Thêm vào đó, xin gởi cho chúng tôi 50 chiến thuyền cùng với số lính tuyển chọn và những khẩu súng mạnh, và chúng tôi sẽ gửi một số lính tin cậy đến hướng dẫn các chiến thuyền của các ông tới Quảng Nam. Đồng thời đạo quân của chúng tôi sẽ tấn công Thuận Hóa… Sau khi chiến thắng chúng tôi sẽ ban tặng cho binh lính các ông 20.000 tới 30.000 lạng bạc. Về phần các ông, chúng tôi sẽ trao xứ Quảng Nam cho các ông cai trị. Các ông có thể chọn một số lính để xây dựng và canh gác thành, chúng tôi sẽ truyền lệnh cho người dân ở đó làm lao dịch cho các ông. Các ông có thể thu hoạch các sản phẩm trong vùng và gởi một phần cho triều đình chúng tôi, như thế cả hai đều được hưởng lợi…”
Công ty Đông Ấn Hà Lan là công ty đa quốc gia đầu tiên trên thế giới, là mẫu công ty đầy quyền lực, sở hữu gần như toàn bộ quyền lực của chính phủ như phát động chiến tranh, thay mặt trong các đàm phán hiệp ước, thành lập thuộc địa v.v… Ngày 14/5/1641, Toàn quyền Công ty Đông Ấn Hà Lan cho chúa Trịnh Tráng biết rằng họ đã sẵn sàng đưa tàu chiến đến để giúp chúa Trịnh đánh Đàng Trong.
Rất có thể nhà Nguyễn biết được điều này nên năm 1641, chúa Nguyễn Phúc Lan hạ lệnh bắt giam các thủy thủ trên 2 tàu Hà Lan bị nạn ngoài biển. Bên cạnh đó, tại Hội An, một chủ cửa hiệu Hà Lan bị mất đồ, đã nghi ngờ và đánh chết một người Việt làm công ăn lương. Tin tức loan ra khiến nhiều người phẫn nộ, dân cùng quan phủ bắt giữ người Hà Lan và đốt cháy mọi thứ trong cửa hiệu.
Đầu năm 1642, Công ty Đông Ấn Hà Lan lợi dụng các thuyền chiến hiện đại đã đến vùng biển phía Nam bắt 120 người ở Đà Nẵng, bố ráp từ vịnh Quy Nhơn trở ra, đốt hàng trăm ngôi nhà cùng các kho thóc gạo, bắt 49 cư dân ven biển nhằm yêu cầu chúa Nguyễn phải thả người (theo sách “Xứ Đàng Trong – lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18” của tác giả Li Tana, Nguyễn Nghị dịch).
Sau đó Công ty Đông Ấn Hà Lan đàm phán cùng chúa Nguyễn nhằm trao đổi người, trong khi phía Hà Lan trả hết người thì phía chúa Nguyễn chưa trả người, lý do là vì bên chúa Trịnh cử đại diện của họ đến gặp công ty Đông Ấn Hà Lan bàn việc đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn yêu cầu bên Hà Lan phải giao người đại diện của chúa Trịnh thì mới chịu thả người.
Thế nhưng sau đó chúa Nguyễn Phúc Lan trực tiếp xem xét sự việc và đã hạ lệnh thả hết số người Hà Lan. Tuy nhiên phía Công ty Đông Ấn của Hà Lan không hề biết việc thả người này. Phải đến năm 1643, họ mới biết được việc này.
Cuộc chiến đầu tiên giữa Đại Việt và Tây phương
Không biết chúa Nguyễn đã thả người, nên 5 tàu chiến Hà Lan với khoảng 200 thủy thủ và quân sĩ dưới sự chỉ huy của Van Liesvelt thẳng tiến đến Đà Nẵng, tấn công quân đồn trú, bắt thêm người nhằm gây áp lực để chúa Nguyễn thả người Hà Lan đang bị bắt giữ. Tuy nhiên cư dân đã phát hiện sớm và báo cho quan viên địa phương. Khi thuyền Hà Lan cập bến đổ bộ lên bờ thì bị tấn công bất ngờ. Cuộc chiến diễn ra cả trên biển lẫn trên bộ, Van Liesvelt cùng nhiều binh sĩ bị tử trận.
Đây có thể được xem là cuộc đụng độ đầu tiên giữa Đại Việt là quân Tây phương, kết quả quân Hà Lan bị thất bại thảm hại.
Cuộc hải chiến lịch sử
Sau sự việc này, Hà Lan quyết định hợp quân với chúa Trịnh để đánh chúa Nguyễn. Năm 1643 đội tàu chiến của Hà Lan đến Đàng Ngoài hội quân với chúa Trịnh, chia làm hai nhóm:
- Nhóm tàu chiến Hà Lan thứ nhất đã đến trước hợp cùng 10 vạn quân của chúa Trịnh Tráng chuẩn bị đánh Đàng Trong.
- Nhóm thứ hai gồm 3 tàu chiến lớn của Hà Lan dưới sự chỉ huy của Pieter Baeck khởi hành sau.
Thuyền của Hà Lan trên đường gặp bão, thay vì phải đến Đàng Ngoài thì lại bị gió bão bão đánh dạt về hướng cảng Eco (tức Thuận An, Phú Vang, Thừa Thiên – Huế ngày nay).
Theo các sách sử ghi chép lại thì lúc này chúa Nguyễn Phúc Lan cũng nhận được tin chiến thuyền Hà Lan ra Đàng Ngoài, nhưng chưa dám quyết định có nên chặn đánh bằng đường biển hay không vì các tàu chiến của Tây phương được trang bị rất hiện đại. Các quan không ai dám lên tiếng vì e ngại sức mạnh của các tàu Tây phương.
Chúa bèn tìm hỏi một người Hà Lan đang giúp việc cho mình, thì người này trả lời rằng: “Tàu Hà Lan chỉ sợ mãnh lực và quân đội của trời thôi”. Lúc này Thế tử Nguyễn Phúc Tần liền dẫn quân đi đánh.
Sách Đại Nam thực lục ghi chép như sau:
“Bấy giờ, giặc Ô Lan (tức Hà Lan) đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử (tức Nguyễn Phúc Tần) tức thì mật báo với chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), đưa thủy quân ra đánh. Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử tự đốc suất chiến thuyền của mình tiến thẳng ra biển. Trung bất đắc dĩ cũng đốc suất binh thuyền theo đi, đến cửa biển thì thuyền của thế tử đã ra ngoài khơi. Trung lấy cờ vẫy lại, nhưng thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến theo. Chiếc thuyền trước sau lướt nhanh như bay, giặc trông thấy thất kinh hoảng sợ”.
Khi cách sông Gianh 5 dặm về phía Nam, quân Hà Lan bất ngờ khi thấy khoảng 50 thuyền chiến Đàng Trong đang đợi sẵn. Thế nhưng quân Hà Lan cũng không lo lắng quá vì tàu chiến của họ rất mạnh và hiện đại, được trang bị trọng pháo, đã chinh phục được Batavia và vùng quần đảo Indonesia.
Thế tử Nguyễn Phúc Tần lệnh cho các thuyền chiến bao vây tấn công 3 tàu chiến Hà Lan. Các tàu Hà Lan trút hỏa lực tối đa. Một số tàu bị trúng đạn, nhưng số tàu khác vẫn tiến lại gần tàu chiến Hà Lan. Nhờ nhỏ nhẹ nên tàu chúa Nguyễn tiến rất nhanh.
Thấy tình thế nguy ngập, một tàu Hà Lan tìm cách tháo chạy, một tàu khác lúng túng va vào đá khiến cả tàu và người chìm xuống biển. Tàu lớn nhất không chạy kịp ở lại chống cự quyết liệt, quân chúa Nguyễn áp sát tràn được vào tàu.
Tuyệt vọng, thuyền trưởng Pieter Baeck cho nổ kho thuốc súng trên tàu, tử trận cùng quân sĩ. 7 thủy thủ nhảy xuống biển cố bơi thoát nhưng đều bị bắt.
Đây được xem là cuộc hải chiến đầu tiên giữa thủy binh Đại Việt với phương Tây.
Thời điểm đó, việc tàu chiến hiện đại phương Tây bị một nước phương Đông đánh bại được xem là một bất ngờ khiến các nhà sử học phương Tây rất ấn tượng và đi vào nghiên cứu, TS Li Tana viết:
“Những người Hà Lan sống sót đã chỉ trích nặng nề viên chỉ huy của họ là đã không lường trước được cuộc tấn công của kẻ địch. Trong cả hai trận chiến (1642 và 1643 – PV), các cuộc tấn công bất ngờ của họ Nguyễn đã đặt người Hà Lan vào thế thủ ngay từ giây phút đầu. Theo Tiền biên, họ Nguyễn đã chuẩn bị kỹ lưỡng vì đã nhận được báo cáo từ một đội đặc biệt gọi là tuần hải, thêm vào là các trạm gác dọc bờ biển…”.
Trần Hưng