Chúng ta đã đi đến ngày hôm nay bằng cách nào vậy? Và chúng ta có thể làm gì với nó?
Con trai của bạn tôi, một cậu bé 13 tuổi, phải nhập viện điều trị vì bị viêm màng não. Cậu bé đã được điều trị 2 tuần, và đã hồi phục. Sang tuần thứ ba, cậu bị nhiễm trùng máu. Mặc dù đã được điều trị bằng những kháng sinh mạnh nhất, phổ rộng nhất, cậu ấy vẫn không qua khỏi. Tôi đã ở bệnh viện đó, và đã có liên quan. Tôi đã dành 20 năm nghiên cứu về việc sử dụng kháng sinh và kháng kháng sinh ở Việt Nam và nhiều quốc gia khác, nhưng bị kịch này vẫn trở thành một ám ảnh cá nhân và ảnh hưởng đến tôi một cách sâu sắc…
Làm việc với hệ thống chăm sóc sức khoẻ tại Việt Nam hai thập kỷ qua, tôi đã tận mắt chứng kiến sự suy yếu trong hiệu quả của thuốc kháng sinh nơi, mà giờ đây chúng ta có những “siêu mầm bệnh” có thể lây lan khắp mọi nơi gây ra những nhiễm trùng không thể điều trị được? Chúng ta đã đi đến ngày hôm nay bằng cách nào vậy?
Thuốc kháng sinh là một trong những trụ cột quan trọng của y học hiện đại, thuốc kháng sinh cũng đã có những đóng góp to lớn trong việc cải thiện sức khỏe của nhiều người trên khắp thế giới trong những thập kỷ vừa qua. Thuốc kháng sinh đã giúp làm giảm ảnh hưởng của nhiễm trùng như một nguyên nhân gây ra tử vong hay hỗ trợ quá trình phẫu thuật và ghép tạng.
Thuốc kháng sinh giúp tiêu diệt một số vi khuẩn, bao gồm một số vi khuẩn có ích trong chuyển hóa của cơ thể, nhưng ngược lại, việc lạm dụng kháng sinh cũng sẽ tạo ra sự kháng thuốc và tạo ra những vấn đề nhiễm trùng rất khó điều trị. Theo thời gian, hiệu quả của việc sử dụng kháng sinh sẽ bị xói mòn và việc phát triển các loại kháng sinh mới sẽ không kịp để thay thế những kháng sinh đã không còn tác dụng.
Ở Việt Nam, kháng sinh được sử dụng rất phổ biến, thường là không cần thiết và rất dễ để mua kháng sinh ở các hiệu thuốc. Các chẩn đoán chính xác thì mất thời gian và nguồn lực để thực hiện. Các xét nghiệm thì không phải lúc nào cũng có thể làm được và thường đắt hơn thuốc. Khi bác sĩ không thể xác định được bệnh do nguyên nhân virus hay vi khuẩn, nhiều bác sĩ đã kê đơn với kháng sinh. Tất nhiên khi thuốc được phân phối càng nhiều, các công ty thường sẽ được hưởng lợi từ quá trình này.
Trong một nghiên cứu được thực hiện năm 1999, chúng tôi đã phỏng vấn các ông bố bà mẹ về sức khoẻ của con cái họ, về việc nếu con cái họ bị ốm, họ dùng thuốc gì và có sử dụng các xét nghiệm để tìm vi khuẩn không. 75% số người được hỏi trả lời họ có sử dụng kháng sinh trong tháng trước đó, hầu hết là không theo chỉ định của bác sĩ và việc kháng kháng sinh là điều phổ biến. Nghiên cứu này được lặp lại sau 7 và 14 năm tiếp tục chỉ ra vấn đề kháng kháng sinh. Thuốc kháng sinh trở nên không còn hiệu quả trong điều trị viêm phổi và nhiễm trùng đường tiết niệu, đồng thời việc tăng cường sử dụng thuốc kháng sinh đường tĩnh mạch đã tạo ra một gánh nặng lên hệ thống y tế và chi phí điều trị bệnh.
Đa phần thuốc kháng sinh được mua từ các nhà thuốc tư nhân và sử dụng để điều trị các bệnh cảm lạnh thông thường gây ra bởi virus – chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu về việc các nhà thuốc tư nhân điều trị nhiễm trùng đường hô hấp như thế nào. Chúng tôi đã đóng vai các bệnh nhân, đặt những bảng câu hỏi để tiếp cận cách các nhà thuốc hoạt động. Hầu hết nhân viên nhà thuốc đề biết thuốc kháng sinh không thể chữa trị cảm lạnh thông thường. Tuy nhiên hơn một nửa số nhà thuốc vấn phân phối thuốc kháng sinh để chữa trị cảm lạnh.
Sau quá trình can thiệp ba bước, kiến thực và thực hành đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn có 1/3 số nhà thuốc bán thuốc kháng sinh. Lý do được đưa ra là các nhân viên nhà thuốc nghĩ rằng người bệnh muốn thuốc kháng sinh mặc dù họ biết rằng kháng sinh có thể không cần thiết. Kiến thức không phải lúc nào cũng đi đôi với thực hành.
Kháng sinh được sử dụng trong cộng đồng có thể ảnh hưởng tới khả năng điều trị những nhiễm trùng nặng đe doạ tính mạng trong bệnh viện. Những gen kháng thuốc thường sẽ tách từ những gen của vi khuẩn mã hoá và kháng lại rất nhiều những loại kháng sinh khác nhau, và nhân lên rất nhanh, và chuyển sang trực tiêps giữa các vi khuẩn, như những file dữ liệu giữa các máy tính.
Vào năm 2013, chúng tôi đã thực hiện đánh giá tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện tại khoa điều trị tích cực ở 16 bệnh viện tại Việt Nam. Trong tổng số gần 5000 bệnh nhân, 1/3 bệnh nhân cả người lớn và trẻ em đã bị nhiễm trùng bệnh viện. Rất nhiều bị nhiễm khuẩn do những siêu vi khuẩn, đã kháng lại hầu hết tất cả các loại kháng sinh hiện có. Để bị nhiễm trùng, bệnh nhân sẽ bị xâm thực bởi vi khuẩn, do đó chúng tôi đánh giá mức độ xâm thực của loại siêu vi khuẩn đó tại rất nhiều bệnh viện và phát hiện ra rằng gần một nửa số bệnh nhân có vi khuẩn.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy rằng, nếu chúng tôi có thể phát hiện sớm sự xâm thực của vi khuẩn, tại lúc nhập viện, những bệnh nhân mang mầm bệnh sẽ đươc cách ly khỏi các bệnh nhân khác, và nhờ đó, nguy cơ lây nhiễm, nhiễm trùng bệnh viện và tử vong sẽ giảm. Ở các bệnh viện, việc sàng lọc các siêu vi khuẩn là rất quan trọng, và việc giữ vệ sinh rất có ý nghĩa, làm giảm nguy cơ các siêu vi khuẩn có thể lây truyền trong bệnh viện và lan ra cộng đồng.
Vậy, bạn có thể làm gì để lấy lại sức mạnh của kháng sinh cho con cháu bạn? Điều quan trong nhất là đừng dùng kháng sinh bừa bãi, mà không có chỉ định của bác sĩ. Khi bạn lựa chọn những địa chỉ tin cậy để đi khám chữa bệnh, hãy lựa chọn những địa chỉ có khả năng chẩn đoán đúng, và làm các xét nghiệm cần thiết để có chẩn đoán chính xác, rõ ràng. Bằng cách đó, bạn sẽ tránh được việc sử dụng kháng sinh không cần thiết và giúp cho việc sử dụng kháng sinh có hiệu quả mỗi khi thực sự cần thiết. Kết quả của nó, bạn sẽ làm giảm nguy cơ gặp phải các tác dụng không mong muốn như tiêu chảy, và giữ được các vi khuẩn có lợi cho việc chuyển hoá của cơ thể, cũng như sự an tâm.
Bài viết dịch từ “The antibiotic apocalypse and what you can do to prevent it”, Mattias Larsson, Vietnamnews.
Tiến sĩ, bác sĩ Mattias Larsson tới Việt Nam lần đầu tiên năm 1997 để nghiên cứu về nhiễm trùng ở trẻ, về thực trạng sử dụng và kháng kháng sinh. Năm 2003 ông hoàn thành học vị tiến sĩ y khoa. Từ đó, bác sĩ Mattias vừa công tác tại Thụy Điển với vai trò bác sĩ Nhi khoa và Bệnh truyền nhiễm, vừa dành một nửa thời gian cho hoạt động nghiên cứu và đào tạo y khoa tại Việt Nam cũng như tại các nước đang phát triển. Hiện bác sĩ công tác tại Family Medical Practice Hà Nội. Bs Mattias thông thạo tiếng Anh, tiếng Thụy Điển, tiếng Đức, tiếng Việt và một chút tiếng Tây Ban Nha. Bác sĩ hiện sống tại Hà Nội cùng vợ và ba con. Sở thích của bác sĩ là chạy bộ, tập luyện và dành thời gian để chơi với ba người con của mình.
Mattias Larsson