Theo Giáo sư Muhammad Abdul Kamal, Pakistan cũng có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững bằng cách học theo mô hình phát triển của Việt Nam.
Nền kinh tế Pakistan đã chịu ảnh hưởng bởi các vấn đề kinh tế vĩ mô nghiêm trọng trong một thời gian, nhưng vẫn chưa quá muộn để “hồi sinh” – đây là lời tựa của bài bình luận vừa được đăng tải hôm 17/1 vừa qua trên tờ báo tiếng Anh lớn nhất và lâu đời nhất của Pakistan – Dawn.
Tác giả bài viết, Giáo sư Muhammad Abdul Kamal đến từ trường Đại học Abdul Wali Khan, lập luận rằng có nhiều quốc gia có thành tích tốt ở châu Á có xuất phát điểm thấp nhưng đã có thể đi đúng hướng trên con đường tăng trưởng kinh tế bền vững sau khi ban hành các cải cách cần thiết. Và theo tác giả, nền kinh tế Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công như vậy.
Sau đây là nội dung lược dịch của bài bình luận có tiêu đề “Vietnam’s economic miracle: insights for Pakistan” (Tạm dịch: “Phép màu kinh tế Việt Nam: Những bài học sâu sắc cho Pakistan”).
Vào khoảng giữa thập niên 1980, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nghèo, và thu nhập bình quân đầu người bị mắc kẹt trong khoảng 200 đến 300 USD.
Sự chuyển mình của Việt Nam bắt đầu vào năm 1986, khi chính phủ khởi động chính sách Đổi mới cùng một loạt các cải cách kinh tế và chính trị nhằm tăng cường vai trò của thành phần tư nhân và mở cửa đất nước cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Nhờ chính sách này, trong giai đoạn 1985-2020, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 12 lần, đạt mức hơn 2.800 USD. Cũng trong giai đoạn này, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam (với mức thu nhập 1,90 USD/ngày) giảm mạnh từ hơn 70% xuống dưới 2 %.
Ngân hàng Thế giới (WB) lý giải sự trỗi dậy của nền kinh tế Việt Nam có thể là nhờ 3 điều sau đây:
1. Tự do hóa thương mại
Thứ nhất, Việt Nam đã rất tích cực tham gia các hiệp định thương mại tự do. Việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với cả các nước châu Á và phương Tây báo hiệu quá trình từng bước tự do hóa thương mại. Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại song phương với 72 quốc gia và xây dựng quan hệ thương mại với 165 quốc gia.
Năm 1995, Việt Nam ký hiệp định thương mại tự do (FTA) Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tiếp đến là FTA với Mỹ vào năm 2000; và vào năm 2007, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Trong 10 năm trở lại đây, Việt Nam đã ký kết hoặc đàm phán 12 FTA song phương và đa phương với Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu.
Ngày 15/11/2020, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được thành lập và Việt Nam là một thành viên tích cực của hiệp định này. Ước tính RCEP sẽ bao phủ 30% dân số thế giới, tạo ra 500 tỷ USD cho thương mại quốc tế và mang lại 209 tỷ USD cho doanh thu toàn cầu vào năm 2030.
Việt Nam đã được hưởng lợi từ chính sách “mở cửa” và đã dần phát triển thành một trung tâm sản xuất trong vòng 3 thập kỷ, với sự hiện diện của nhiều doanh nghiệp lớn của nước ngoài như Intel, Samsung, Adidas và Nike trên lãnh thổ.
Trung bình cứ 10 chiếc điện thoại di động được sản xuất trên thế giới thì có một chiếc điện thoại di động được sản xuất tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã trở thành một nhà xuất khẩu lớn về các mặt hàng dệt may, hàng điện tử và giày dép, cùng các mặt hàng khác.
2. Cải cách từ bên trong
Thứ hai, Việt Nam còn tiến hành những cải cách từ bên trong như bãi bỏ quy định và giảm chi phí kinh doanh. Năm 2007, Việt Nam xếp hạng 104 về chỉ số Kinh doanh, nhưng đến năm 2020 Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 70.
Việt Nam đã cải thiện năng lực trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thực thi hợp đồng, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và điện, nộp thuế và thương mại xuyên biên giới. Sự thay đổi về vị trí của Việt Nam trên Chỉ số năng lực cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới phản ánh sự chuyển đổi này, thăng hạng từ vị trí thứ 77 vào năm 2006 lên vị trí thứ 67 vào năm 2019.
Về Chỉ số Đổi mới Toàn cầu 2021, Việt Nam xếp thứ 44 trong số 132 quốc gia và là một trong 4 nền kinh tế thu nhập trung bình (cùng với Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ và Philippines) có tiềm năng định hình lại bối cảnh đổi mới toàn cầu bằng cách bắt kịp các nền kinh tế lớn hơn như Trung Quốc.
3. Phát triển nhân lực và xã hội
Thứ ba, Việt Nam đã mạnh tay đầu tư vào nhân lực và phát triển xã hội, qua đó có được lực lượng lao động có tay nghề cao, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh. Cụ thể, chỉ số phát triển con người của Việt Nam tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,706 vào năm 2020. Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia có trình độ phát triển con người cao.
Việt Nam làm được, Pakistan cũng có thể!
Theo Giáo sư Muhammad Abdul Kamal, Pakistan cũng có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững bằng cách học theo mô hình phát triển của Việt Nam.
Theo đó, Pakistan cần tập trung vào các cải cách theo định hướng tăng trưởng và hoạch định chính sách hợp lý để đạt được mục tiêu này.
Học tập Việt Nam, Pakistan cần tự do hóa thương mại và ký kết các hiệp định thương mại tự do với các đối tác thương mại tiềm năng. Pakistan cần có thêm nhiều nỗ lực để ổn định toàn bộ môi trường xã hội, kinh tế và chính trị của đất nước để không chỉ thu hút khoản đầu tư nước ngoài rất cần thiết, mà còn thu hút đầu tư vào các ngành trọng điểm như sản xuất và nông nghiệp.
Hơn nữa, những cải thiện trong lĩnh vực xuất khẩu phải được thực hiện bằng cách nâng cao năng suất và sản xuất công nghiệp trong nước.
Và giống như Việt Nam, để Pakistan có lực lượng lao động năng suất cao hơn, nước này cần phải đầu tư vào phát triển nhân lực – động lực chính thúc đẩy năng suất, sự đa dạng, đổi mới và tăng trưởng đáng kể hơn trong tương lai./.
Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị