Với những tổn thất to lớn do trang bị kém, ít kinh nghiệm chiến đấu, phương án tác chiến tệ hại, cùng sức ép từ biên giới Xô-Trung, ngày 5.3.1979, Trung Quốc buộc phải rút quân.
Vốn đã sẵn âm mưu chống phá Việt Nam, trong tình thế tay sai Khmer Đỏ bị đánh cho tơi bời và đứng trước nguy cơ bị xóa sổ – nhà cầm quyền Trung Quốc khi đó đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới vào ngày 17.2.1979 nhằm cứu nguy cho bè lũ Polpot.
Nguyên nhân – Mục đích – Lực lượng và Biện pháp
Là hai quốc gia láng giềng của nhau, “núi liền núi, sông liền sông” – như lời một bài hát song lịch sử bang giao giữa hai nhà nước Việt Nam – Trung Quốc có nhiều khúc quanh co, gập ghềnh.
Từ sau khi Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng chấm dứt ngót 1.000 năm “Bắc thuộc”, giành lại nền độc lập cho nước nhà thì các triều đại phong kiến Trung Quôc đã nhiều lần cất quân xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh xâm lược đó trước sau đều bị quân dân Việt Nam đánh cho đại bại.
Năm 1949, Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời. Với một ý thức hệ có nhiều điểm tương đồng, Trung Quốc đã có những giúp đỡ rất quan trọng đối với Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Tuy nhiên, với bản chất “sô-vanh” nước lớn, sự giúp đỡ đó cũng không hoàn toàn trong sáng mà luôn đi kèm theo đó là những mục đích phục vụ cho những lợi ích của họ.
Những năm 60 của thế kỷ trước, thất bại trong việc lôi kéo Việt Nam chống Liên Xô và hành động theo ý mình trong đánh Mỹ, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã trở mặt, bắt tay với Mỹ chống phá Việt Nam.
Khi nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thì sự chống phá của Trung Quốc với Việt Nam càng trở nên rõ ràng. Đã nhiều lần, các lãnh đạo Trung Quốc gọi Việt Nam là “tiểu bá” và tuyên bố sẽ “trừng phạt” bằng quân sự.
Lo ngại về một nước Việt Nam láng giềng thống nhất, hùng mạnh trong tương lai không xa, Trung Quốc đã có những âm mưu rất thâm hiểm để ngăn cản quá trình đó.
Ngoài việc cắt đứt viện trợ, ngăn cản thông thương, tạo ra vụ “nạn kiều” nhằm phá hoại nền kinh tế Việt Nam thì Trung Quốc còn nuôi dưỡng bọn tay sai Khmer Đỏ làm tên lính xung kích chống phá nước ta từ phía Tây Nam, tạo nên một gọng kìm hòng “bóp chết” Việt Nam.
Bất chấp sự chống phá có hệ thống của Trung Quốc, nhân dân Việt Nam vẫn kiên trì con đường độc lập của mình.
Không chỉ vậy, bằng đòn phản công vũ bão, chỉ trong vòng 1 tuần lễ, quân đội nhân dân Việt Nam cùng với lực lượng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã đánh tan hàng chục sư đoàn chủ lực Khmer Đỏ, giải phóng thủ đô Phnom Pênh, cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng.
Vốn đã sẵn âm mưu tiến công Việt Nam, trong tình thế ấy, để cứu nguy cho bọn tay sai Khmer Đỏ, nhà cầm quyền Trung Quốc đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược VN trên toàn tuyến biên giới vào ngày 17.2.1979 với cái cớ hết sức nực cười là “phản công tự vệ”.
Để thực hiện mục đích đó, tư tưởng chỉ đạo được nhà cầm quyền Trung Quốc đặt ra cho cuộc chiến tranh là “đánh nhanh, thắng nhanh”, “đốt sạch, phá sạch” với sự tham gia của hai Đại quân khu Quảng Tây và Côn Minh quân số tổng cộng lên đến 600.000 người cùng hàng nghìn phương tiện chiến tranh.
Binh pháp truyền thống của Quân đội Trung Quốc đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai đội quân nhằm “Tập trung biển người để bao vây quân địch từ hai bên sườn nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch bằng những trận đánh hủy diệt theo phương thức đánh nhanh rút gọn”.
Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến là “ngưu đao sát kê” (dùng dao mổ trâu để giết gà) gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của đối phương tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công sào huyệt đối phương.
Ảo tưởng vào sự áp đảo binh lực và sự sáng suốt của binh pháp chiến thuật, một lãnh đạo chủ chốt của Trung Quốc đã huênh hoang tuyên bố trên truyền thông trước khi mở màn chiến dịch: “Trung Quốc sẽ ăn sáng tại Hà Nội, ăn trưa tại Huế và ăn tối tại Sài Gòn”.
Diễn biến – Kết quả và những bài học
Sáng sớm ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc huy động tổng cộng khoảng 25 sư đoàn chính quy (từ 200.000 đến 250.000 quân) cùng gần 600 xe tăng và nhiều loại phương tiện chiến đấu khác bất ngờ đánh chiếm toàn tuyến biên giới dài 1.400 km tại 6 tỉnh biên giới của Việt Nam.
Do các lực lượng chính quy và tinh nhuệ nhất của Việt Nam đang làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia nên để chống trả lại cuộc xâm lược này của Trung Quốc chủ yếu là các dân quân, địa phương quân, du kích và công an biên phòng cùng một số sư đoàn: 338, 346, sư đoàn 3 Sao Vàng.
Tổng cộng phía Việt Nam chỉ có từ 100.000 đến 120.000 quân, chủ yếu là dân quân cho công cuộc phòng thủ này.
Với lợi thế quen thuộc địa hình và kinh nghiệm trong chiến tranh chống Mỹ cùng tinh thần chiến đấu dũng cảm đã thành truyền thống, các lực lượng phòng thủ phía Việt Nam đã gây cho Trung Quốc những tổn thất rất lớn khiến chúng không tràn xuống được vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Về phía Liên Xô cũng có những hành động ủng hộ Việt Nam hết sức kịp thời: Hạm đội Thái Bình Dương lập tức dàn lực lượng hỗ trợ bảo vệ toàn bờ biển Việt Nam, 40 sư đoàn Hồng quân Liên Xô áp sát biên giới Xô-Trung, các máy bay vận tải Liên Xô lập cầu không vận để chuyển một số đơn vị chủ lực đang chiến đấu tại Campuchia ra phía Bắc để chuẩn bị phản công.
Lệnh tổng động viên được ban bố, khắp Hà Nội các hào chiến đấu, hầm chống bom được đào nhanh chóng. Phòng tuyến sông Cầu, chốt chặn thị xã Bắc Giang được gấp rút xây cất chờ đợi tặng cho bọn xâm lược Trung Quốc những bài học đẫm máu nếu chúng dám tràn xuống đồng bằng để đánh chiếm Hà Nội.
Với những tổn thất to lớn do quân số trang bị kém, ít kinh nghiệm chiến đấu, phương án tác chiến đạt hiệu quả thấp, cộng với sức ép từ biên giới Xô-Trung và từ cộng đồng quốc tế – ngày 5.3.1979, Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân.
Các đơn vị quân chính quy của Việt Nam được tiếp vận từ Campuchia lên hoàn toàn chưa kịp tham chiến.
Cuộc chiến tuy ngắn ngày: chỉ từ sáng 17.2 đến 5.3 năm 1979, và từ 5.3 đến 16.3 cho giai đoạn Trung Quốc rút quân về nước nhưng vô cùng khốc liệt.
Ngoài việc đánh chiếm các tỉnh biên giới Việt Nam hòng mở đường tiến về Hà Nội, Trung Quốc còn thực hiện việc phá huỷ đến mức hoàn toàn tất cả các cơ sở hạ tầng, nhà máy, cầu cống, nhà ở, trường học, trạm xá, bệnh viện v.v…. của các tỉnh biên giới Việt Nam và giết hại nhiều dân thường Việt Nam.
Tuy nhiên, cuộc chiến do Trung Quốc châm ngòi và phát động để “dạy cho Việt Nam một bài học” đã mang lại cho chính họ những thiệt hại nặng nề.
Theo một số tài liệu phương Tây, Trung Quốc đã mất đến 45.000 quân. Còn theo phía Việt Nam ước tính thì Trung Quốc có thể đã mất 30.000 quân, số bị thương cũng khoảng 30.000, gần 300 xe tăng thiết giáp bị bắn cháy.
Cuộc chiến đã khiến nhà cầm quyền Trung Quốc phải rút ra những bài học lớn, trong đó quan trọng nhất là bài học về sự lạc hậu cả về trang bị vũ khí cũng như binh pháp chiến thuật.
Còn về phía Việt Nam, bài học quan trọng nhất cần rút ra là phải luôn luôn cảnh giác. Đồng thời chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh về mọi mặt, đủ sức đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Đại tá Nguyễn Khắc Nguyện