Người Trung Quốc vốn tự hào về tòa Tử Cấm Thành nguy nga đồ sộ, tọa lạc ở trung tâm thành phố Bắc Kinh. Quần thể kiến trúc có diện tích lớn hơn cả Vatican này đã thu hút hàng triệu lượt du khách đến tham quan mỗi năm, và được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Tuy nhiên niềm tự hào Trung Hoa đó lại được góp phần xây dựng bởi một kiến trúc sư người Việt.
Nằm ngay giữa trung tâm thành phố Bắc Kinh, Tử Cấm Thành là quần thể công trình cổ bằng gỗ lớn nhất thế giới, trải qua các triều đại Trung Hoa từ giữa nhà Minh đến cuối nhà Thanh, có diện tích 720.000 m², với 980 công trình còn tồn tại, chứa 8.886 căn phòng.
Tử Cấm Thành được xem là tinh hoa của văn hóa Trung Hoa 5.000 năm, thể hiện sự kính ngưỡng trời đất, trọng Đạo, tuân theo thuyết “thiên nhân hợp nhất”, âm dương hòa hợp. Trung tâm Hoàng Thành là Cung Thành, trung tâm Cung Thành là điện Phụng Thiên (thời nhà Thanh đổi tên thành điện Thái Hòa). Điện Phụng Thiên là điện lớn nhất trong Tử Cấm Thành, mang hàm nghĩa là vâng theo mệnh trời, tuân theo thiên ý. “Hoàng thiên vô thân, duy đức thị phụ; dân tâm vô thường, duy huệ chi hoài”, chính là “Trời xanh không kể thân thích, chỉ trợ giúp người có Đức, lòng người thay đổi vô thường, chỉ ban ân huệ cho người có tấm lòng”. Mệnh trời chỉ chiếu cố cho những vị hoàng đế có đức, nếu hoàng đế thất đức thì hoàng triều sẽ suy sụp. Do đó các bậc đế vương cần tu thân tích đứng để xứng với mệnh trời.
Là niềm tự hào của Trung Hoa, Tử Cấm Thành được xây dựng bởi nhiều kiến trúc sư và công trình sư tài giỏi, trong đó có các kiến trúc sư trưởng là Sái Tín, Trần Khuê, Ngô Trung và Nguyễn An, cùng các tổng công trình sư là Khoái Tường và Lục Tường. Và Nguyễn An chính là một vị nhân tài người Việt.
Từ Thăng Long tới Tử Cấm Thành
Nguyễn An sinh năm 1381 ở Hà Đông, từ thuở nhỏ đã nổi tiếng khắp vùng với đôi tay tài hoa và khéo léo. Năm 1397, khi vua Trần Thuận Tông xây dựng sửa chữa kinh thành Thăng Long, cậu thanh niên Nguyễn An đã được mời vào nhóm thợ chính tham gia xây dựng dù mới chỉ 16 tuổi.
Năm 1407, khi quân Minh đánh bại nhà Hồ và bắt được hai cha con Hồ Quý Ly, nhà Minh cũng lùng tìm những tài năng đất Việt đưa về phương bắc như Phạm Hoằng, Vương Cấn… Những danh y thời đấy cũng đều bị đưa sang Trung Quốc.
Đại Việt Sử ký Toàn thư cũng có ghi chép rằng:
Người Minh lùng tìm những người ẩn dật ở rừng núi, người có tài có đức, thông minh chính trực, giỏi giang xuất chúng, thông kinh giỏi văn, học rộng có tài, quen thuộc việc quan, chữ đẹp tính giỏi, nói năng hoạt bát, hiếu để lực điền, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh dũng cảm, quen nghề đi biển, khéo các nghề nung gạch, làm hương… lục tục đưa dần bản thân họ về Kim Lăng.
Nguyễn An cũng nằm trong số những tài năng bị đưa sang Trung Quốc làm thái giám với tên gọi là A Lưu (tên tiếng Hán của Nguyễn An). Thời điểm này hoàng đế Minh Thành Tổ đang trị vì và gấp rút xây dựng kinh đô mới ở Bắc Kinh. Việc xây dựng một kinh thành nguy nga tráng lệ và đồ sộ như vậy đòi hỏi phải có những nhân tài kiệt xuất về kiến trúc và thiết kế, ngay thẳng chính trực và không vụ lợi.
Những người tài được lựa chọn có Nguyễn An, Sái Tín, Trần Khuê, Ngô Trung, Khoái Tường và Lục Tường. Theo các nguồn sử liệu khác nhau như “Quốc Triều Chính Lục”của Tiêu Hoành, “Minh Sử Thiết” của Doãn Thu Hoành, “Minh Thư” của Phố Duy Lân, “Ngu Sơn Tập” của Thi Nhuận Chương hay “Thủy Ðông Nhật Ký” của Diệp Thịnh, thì do Nguyễn An là người công minh chính trực, liêm khiết, lại có tài thiết kế, nên Hoàng đế tin tưởng giao cho ông làm Tổng công trình sư, chịu trách nhiệm thiết kế, đôn đốc xây dựng cung đình; ông là người chịu trách nhiệm quyết định tối cao cho công trình, chỉ sau Minh Thành Tổ.
“Minh Sử” quyển thứ 304 phần phụ lục Truyện Kim Anh cũng có đoạn nói về Nguyễn An như sau:
Nguyễn An người Giao Chỉ, đầu óc minh mẫn, kỹ thuật tài giỏi hơn người, vâng mệnh Thành tổ xây dựng thành trì, cung điện và các dinh thự của các phủ, bộ, mắt đo, bụng nhẩm tính đâu ra đó, đều đúng kế hoạch. Công bộ chỉ biết vâng theo, chấp hành.
Nguyễn An phải vất vả với các việc như vẽ thiết kế, đào tạo nhân lực, cho đến chỉ đạo thi công và giám sát hiện trường. Tử Cấm Thành được xây từ năm 1406 đến 1420 thì hoàn tất, trong suốt 13 năm ấy Nguyễn An đã phải chịu rất nhiều sức ép từ Minh Thành Tổ.
Tương truyền khi xây dựng kiến trúc tại 4 góc của Tử Cấm Thành, Nguyễn An đã trình hết bản thiết kế này đến bản thiết khác nhưng vẫn không được chấp nhận. Quá nóng giận, Minh Thành Tổ đã ra lệnh nếu Nguyễn An không thể đưa ra bản thiết kế khiến ông ta ưng ý thì ngày mai đầu sẽ lìa khỏi cổ.
Nguyễn An phải làm việc suốt đêm đó, và cuối cùng lấy ý tưởng từ chiếc lồng nuôi dế của mình để thiết kế ra kiến trúc có mái xếp tầng tầng lớp lớp. Đến nay, kiến trúc đó vẫn được coi như biểu tượng đặc trưng của Tử Cấm Thành.
Kiến trúc sư đại tài
Có một giai đoạn khi tìm hiểu về quá trình xây dựng Từ Cấm Thành, các nhà nghiên cứu đều đau đầu không hiểu thời đấy người ta làm cách nào để có thể vận chuyển những khối đá nặng đến 300 tấn. Thông qua tài liệu ghi chép vào thời đó, cuối cùng bí ẩn này mới được giải mã. Và nó thể hiện khả năng sáng tạo tuyệt vời của Nguyễn An.
Nhận thấy khu vực khai thác đá ở nơi lạnh lẽo -20oC, ông đã cho đào một rãnh nước có chiều ngang bằng tảng đá kéo dài đến nơi xây dựng, sau đó dẫn nước sông vào. Nước nhanh chóng bị đông cứng tạo thành một đường băng trơn trượt từ mỏ đá đến kinh thành, khiến việc vận chuyển những tảng đá khổng lồ hàng trăm tấn trở nên dễ dàng. Ý tưởng của Nguyễn An khiến hậu thế tới nay vẫn phải khâm phục.
Sách “Kinh thành ký thắng” của Dương Sĩ Kỳ viết:
Nguyễn An tự tay vạch kiểu, thành hình là lập được thế, mắt ngắm là nghĩ ra cách làm, tất cả đều đúng với quy chế. Bộ công và các thợ thuyền đành chịu khoanh tay, bái phục, nghe ông chỉ bảo, sai khiến, thật là người đại tài, xuất chúng.
Tháng 10 năm 1436, đời Minh Anh Tông, khi chuẩn bị xây dựng công trình chín cửa thành lầu ở Kinh Sư, Công bộ Thị lang Thái Tín cho rằng: “Một công trình quy mô to lớn như vậy, cần phải có nhiều sức lao động, ít nhất phải trưng dụng 18 vạn dân phu.”
Minh Anh Tông bực mình lắm, liền sai Nguyễn An đứng ra chủ trì công việc. Nguyễn An chỉ lấy có hơn 1 vạn quan binh đang thao luyện ở Kinh Sư cho tạm ngừng thao tập, tổ chức họ tham gia xây dựng chín cửa thành lầu. Ðể cho quan binh làm tốt nhiệm vụ này, Nguyễn An đã phát lương bổng và cung cấp thực phẩm đầy đủ. Trong quá trình xây cất, Nguyễn An lại chú ý tổ chức họ kết hợp lao động và nghỉ ngơi một cách thích đáng.
Kết quả, tháng 1/1437 khởi công, đến tháng 4/1439, chín cửa thành lầu, bao gồm cả hào thành, cầu cống có liên quan đều hoàn tất một cách tốt đẹp. Công trình quy mô to lớn đáng lẽ phải huy động tới 18 vạn dân phu, mà Nguyễn An chỉ dùng có hơn 1 vạn quan binh là có thể hoàn thành nhiệm vụ đạt yêu cầu. Dân chúng không ai bị quấy nhiễu.
Dương Kỳ, người đời Minh đã viết trong “Ðô thành lam thắng thi lãm” trong quyển thứ 23 “Ðổng lý tục tập” rằng:
Sở dĩ sự việc nêu trên đạt được thành công, đó là do Nguyễn An giỏi về quy hoạch, trung thành với việc công, đối với thuộc hạ, nhiệt tình quan tâm, giúp đỡ, nên mới có kết quả như vậy.
Miệt mài trị thủy giúp dân
Không chỉ xây dựng Tử Cấm Thành, các công trình lớn khác cũng có sự tham gia của Nguyễn An, như việc trị thủy sông Hoàng Hà. Những trận lũ lụt lớn trên sông Hoàng Hà vào các năm 1444 – 1445, hoàng đế nhà Minh đều tin tưởng cử Nguyễn An đi sửa sang lại đê điều. Ông đích thân chỉ huy việc đắp những con đê lớn tại những nơi xung yếu cũng như đào đắp những công trình thủy lợi lớn.
Những năm cuối đời dù tưổi cao sức yếu, Nguyễn An vẫn miệt mài trị thủy giúp dân. Năm 1453 khi đã 73 tuổi, ông vẫn đến Sơn Đông trị thủy và mất dọc đường. Lúc sắp mất ông vẫn canh cánh trong lòng nỗi lo người dân Sơn Đông đói khổ vì lũ lụt. Ông trăn trối rằng đừng xây lăng mộ cho ông như những người có công thời ấy thường làm, mà nên đem toàn bộ của cải của ông góp vào quỹ công, để phát chẩn cho dân bị lụt ở Sơn Đông, những nơi ông đang đi mà chưa tới.
Nhà sử học Trương Tú Dân nhận xét rằng về Nguyễn An là: “Hết lòng vì công việc, thanh bạch, liêm khiết, khắc khổ, khi lâm chung không có nén vàng nào trong túi, là một con người cao thượng, chỉ để lại công đầu ở Bắc Kinh.”
Nhiều sách sử của Trung Quốc như “Hoàng Minh thông kỷ”, “Anh Tông chính thống thực lục”, hay “Kinh kỳ ký thắng” và “Thủy Động nhật ký”… đều ghi nhận công lao to lớn của Nguyễn An.
Trần Hưng