Vụ va chạm của hai chiếc máy bay Mỹ cách đây 50 năm đã khiến 4 quả bom nhiệt hạch lao xuống Tây Ban Nha với tốc độ khủng khiếp và có thể đã giết chết hàng triệu người nếu phát nổ, nhưng may thay, dường như Chúa đã giang tay che chở cho nhân loại.
Những năm 1960 – thời kỳ đỉnh cao của chiến tranh Lạnh, quân đội Mỹ cho ra đời một chiến dịch phòng thủ lớn mang tên Chrome Dome để tạo cho siêu cường này khả năng ngay lập tức đáp trả trong trường hợp xảy ra một vụ tấn công nguyên tử từ Liên Xô.
Chiến dịch này bao gồm việc cho các máy bay ném bom hạng nặng liên tục hiện diện 24/24 giờ trên khu vực Đại Tây Dương, chúng sẽ bay từ Mỹ tới bờ đông Italia, rồi lại quay về Mỹ. Điều này có nghĩa là nếu tổng thống Mỹ ra lệnh tấn công Liên Xô, các máy bay ném bom có thể nhanh chóng tới mục tiêu để không kích.
Chuyến bay bão táp
Như thường lệ, vào ngày 16-1-1966, một chiếc Stratofortress B-52 với 7 thành viên phi hành đoàn và 4 quả bom nhiệt hạch cất cánh từ căn cứ không quân Seymour Johnson ở Bắc Carolina bay tới Châu Âu.
Điều khiển chiếc B-52 hôm đó là Charles J. Wendorf 29 tuổi. Dù còn khá trẻ nhưng phi công này đã lái B-52 hơn 5 năm. Anh có 3 con và sáng hôm đó, vợ Bette đã lo lắng nói với chồng rằng mình có linh cảm không lành về chuyến bay. Bette cầu xin chồng không đi. Đáp lại, Wendorf nói mệnh lệnh là mệnh lệnh và anh không có lựa chọn khác.
Do đường bay khá dài nên chiếc B-52 phải tiếp liệu trên không tới 4 lần. Theo kế hoạch, chiếc KC-135 Stratotanker sẽ kết nối với chiếc B-52 tại độ cao 9.500 mét để tiếp dầu trên khu vực đông nam Tây Ban Nha. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 17-1-1966, 2 máy bay tới điểm hẹn tiếp liệu.
Khi bay với tốc độ hơn 800km/giờ, quy trình tiếp liệu không hề đơn giản nhưng các phi hành đoàn của 2 máy bay có nhiều kinh nghiệm. Lúc đó, Wendorf đang nghỉ giải lao và chiếc B-52 do một trong hai cơ phó là Larry G. Messinger lái.
Trong quá trình tiếp liệu, thùng chứa của chiếc B-52 sẽ phải ghép với khoang chứa nhiên liệu mà chiếc KC-135 mang theo. Người phụ trách khoang chứa nhiên liệu của máy bay tiếp liệu nhận thấy chiếc B-52 đang bay tới với tốc độ hơi nhanh. Người này bình tĩnh nhắc phi hành đoàn chiếc B-52: “Hãy để ý tốc độ”. Cơ phó Messinger nhớ lại: “Chúng tôi không thấy tình hình có gì nguy hiểm. Nhưng đột nhiên, mọi chuyện trở nên hỗn loạn”.
Chiếc B-52 bay quá vị trí, đầu vòi nhiên liệu trên máy bay chiếc KC-135 đã cắm trượt đầu tiếp khoang chứa nhiên liệu của chiếc B52. Vòi khoang chứa của chiếc KC-135 va vào chiếc B-52 với một lực mạnh đến mức làm gãy cánh trái máy bay. Lửa nhanh chóng lan ra khắp khoang chứa đầy nhiên liệu và bén vào gần 114.000 lít dầu. Khoang chứa lao xuống đất.
Trong khi đó, chiếc B-52 bắt đầu vỡ ra từng mảnh. Phi hành đoàn cố gắng hết sức để thoát ra khỏi máy bay bằng dù. Về phần các quả bom nhiệt hạch, các thành viên phi hành đoàn đã không thể làm gì. Trong vòng chưa đầy 2 phút, 4 quả bom lao xuống đất với tốc độ kinh hoàng, phá hủy phần lớn khu vực Andalucia và Murcia. Nếu chúng phát nổ, hàng trăm nghìn người có thể đã chết. Bụi hạt nhân có thể giết chết hàng triệu người nữa khắp châu Âu. Họ có thể không chỉ chết vì nhiễm phóng xạ mà còn chết vì ung thư suốt hàng chục năm sau đó.
Bàn tay của Chúa
May mắn thay, cả 4 quả bom nhiệt hạch B28 đã không nổ khi rơi xuống. Chỉ có 2 thiết bị nổ thông thường bên trong 2 quả bom nhiệt hạch phát nổ, trút 3kg chất phóng xạ plutonium-239 xuống làng chài Palomares. Người dân Palomares đã chứng kiến vô số mảnh kim loại lớn bốc cháy ồ ạt trút xuống như một cơn mưa lửa.
Lúc đó, ông Jose Molinero đang dạy học tại trường và yêu cầu học sinh ở yên trong lớp. Một mảnh của máy bay ném bom đã lao xuống cách lớp học chỉ hơn 70 mét. Còn ông Pedro de la Torres Flores 83 tuổi đang đứng với 2 đứa chắt cũng suýt bị bom rơi trúng. 1 trong 4 quả bom nhiệt hạch hạ cánh ngay trước họ, khiến họ ngã vật ra nhưng không nguy hiểm tới tính mạng.
Vậy tại sao mấy quả bom lại không phát nổ? Nguyên nhân là vì phi hành đoàn chiếc B-52 chưa lắp chốt cho bom, tức là mạch điện kích nổ quả bom nhiệt hạch chưa được kích hoạt. Muốn bom nổ, mạch điện cần được kích hoạt để quá trình phân hạch plutonium và uranium trong bom diễn ra. Lúc đó, quả bom nhiệt hạch mới có thể thể hiện sức công phá khủng khiếp.
Do đó, khi chất nổ thông thường trong quả bom hạt nhân chưa lắp chốt nếu có phát nổ cũng sẽ không gây ra thảm họa hạt nhân mà chỉ gây ra “bom bẩn” – tức là chất nổ bình thường sẽ phát tán chất phóng xạ độc hại ra môi trường trong một diện tích hẹp.
Ba quả bom còn lại không gây hại cho con người và tài sản. Quả bom thứ hai chỉ có một nửa chất nổ bình thường phát nổ. Quả bom thứ ba rơi xuống lòng một con sông cạn và không nổ. Quả thứ tư rơi xuống biển cách đó hơn 15km.
Một điều may mắn hơn nữa là dù trên các quả bom đã không hoạt động. Điều đó có nghĩa là các quả bom rơi với một lực mạnh đến mức chúng lao sâu vào lòng đất khiến chỉ một lượng nhỏ phóng xạ plutonium bị phát tán ra ngoài khi khối chất nổ thường phát nổ. Thêm một điều may khác là hướng gió thuận lợi đã thổi các hạt bụi phóng xạ ra xa Palomares.
Dân làng Palomares đã thoát chết một cách thần kỳ nhưng các thành viên phi hành đoàn không được may mắn như thế. Bốn người trên chiếc máy bay tiếp liệu KC-135 chết thảm khốc. Nhiều khả năng họ bị thiêu sống trước khi máy bay phát nổ thành một quả cầu lửa khổng lồ ở độ cao gần 500 mét. Những người trên chiếc B-52 khá hơn đôi chút. Bốn thành viên phi hành đoàn, trong đó có Wendorf, đã nhảy dù thoát thân an toàn. Ba người trong số họ được cứu sống trên biển. Người còn lại đáp xuống vùng đất gần Palomares trong tình trạng bị bỏng nặng và gãy vai, ba người còn lại trong phi hành đoàn đã không thể thoát ra khỏi chiếc máy bay đang vỡ vụn.
Chỉ vài phút sau khi xảy ra vụ việc, Không quân Mỹ đã đánh điện cho Lầu Năm góc và Phòng Tình huống ở Nhà Trắng chỉ mấy chữ: Broken Arrow (Mũi tên gãy), một mật danh ám chỉ một đầu đạn hạt nhân đã mất. Tổng thống Lyndon Johnson liên tục được cập nhật thông tin. Một đội kiểm soát thảm họa từ căn cứ Torrejon ở Mỹ vội vã tới Palomares. Họ tới vào chiều hôm đó để lùng tìm các quả bom.
Ba quả bom được xác định vị trí và được di dời trong vòng 24 giờ. Quả thứ tư nằm sâu gần 800 mét dưới đáy Địa Trung Hải. Quá trình trục vớt quả bom này khiến Hải quân Mỹ khốn đốn. Họ mất gần 3 tháng để tìm ra vị trí quả bom và ngay khi vừa được kéo lên gần đến mặt biển, vì một sơ suất nó lại bị chìm trở lại và rơi xuống sâu thêm 150 mét nữa khiến việc trục vớt thêm khó khăn gấp bội. Mãi đến giữa tháng 4, quả bom mới được đưa lên khỏi mặt nước.
Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn nằm ở mặt đất nơi mà các hạt phóng xạ vương vãi. Mỹ đã di dời 5.000 thùng đất nhiễm phóng xạ để chôn tại trụ sở Ủy ban Năng lượng Nguyên tử tại Charleston, bang Nam Carolina. Nông dân ở Palomares được bồi thường tiền vụ khoai tây bị ảnh hưởng bởi sự cố.
Mặc dù vậy, vào năm 2008, Cơ quan hạt nhân Tây Ban Nha cho biết vẫn còn gần 49.000m2 đất bị nhiễm độc và nửa kilôgam plutonium vẫn còn ở ngoài môi trường khiến Palomares trở thành một chủ đề căng thẳng trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Cuối cùng, sau một thời gian đàm phán, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhất trí với Ngoại trưởng Tây Ban Nha năm 2014 rằng phía Mỹ sẽ di dời số đất ô nhiễm còn lại. Đây sẽ là một dự án khổng lồ, mất tới 2 năm và tốn 37,7 triệu USD. Nhưng số tiền đó vẫn quả thực là quá nhỏ so vơi việc chỉ cần 1 trong 4 quả bom nhiệt hạch kể trên phát nổ, khi đó, thiệt hại về nhân mạng, tiền bạc và thời gian còn khủng hiếp hơn rất nhiều.
Đây chỉ là một trong hàng loạt các sự kiện được xếp vào nhóm rất có thể đã đưa nhân loại đến diệt vong nếu không có sự bảo hộ của Chúa.
Chẳng hạn, vào tháng 10/1962, một tàu ngầm trang bị ngư lôi hạt nhân của Liên Xô bị hải quân Hoa Kỳ vây ráp tại biển Caribe giữa lúc cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đang ở mức đỉnh điểm. 2 trong số 3 chỉ huy có mặt trên chiếc tàu ngầm B – 59 của Liên Xô đã quyết định phóng ngư lôi hạt nhân để đáp trả.
May thay, chỉ huy cuối cùng là Arkhipov đã thuyết phục 2 chỉ huy còn lại kiềm chế, đưa tàu lên mặt nước để dừng vụ tấn công và rút lui khỏi vùng biển. Nếu vụ phóng ngư lôi mang theo đầu đạn hạt nhân được thực hiện, nó sẽ làm bốc hơi một tàu khu trục hoặc một tàu sân bay Mỹ. Và phía Mỹ có thể sẽ phản ứng bằng bom hạt nhân phá tàu ngầm, kích hoạt một loạt diễn biến gây ra hậu quả hủy diệt.
Một sự kiện tương tự diễn ra vào đêm ngày 26/9/1983 khi chuông báo động kêu vang trung tâm Serpukhov-15, báo hiệu rằng Mỹ đã phóng 5 tên lửa đạn đạo liên lục địa nhắm đến Liên Xô. Trung tá Stanislav Petrov, 44 tuổi phải quyết định thật nhanh xem cuộc tấn công vào Liên Xô đó có thật hay không và sau vài phút cân não, ông đã quyết định báo cáo đó là cảnh báo giả và không tấn công đáp trả. Nếu Petrov ngày đó quyết định khác, thế chiến III chắc chắn đã xảy ra…
Và còn rất nhiều các sự kiện đáng sợ khác nữa, cho thấy việc dường như có một sức mạnh nào đó đã khiến những con người nào đó trong những giờ phút quyết định “tháo ngòi” cho những thảm họa khủng khiếp xảy ra. Con người luôn cho rằng mình tài giỏi nhưng trên thực tế lại vô cùng nhỏ bé và không thể kiểm soát được điều gì, tất cả đều nằm trong bàn tay của Chúa.
Nhật Minh-DKN