Đất Kinh Bắc xưa là nơi phong thủy tốt, giang sơn tụ khí, là vùng đất khoa bảng sản sinh ra nhiều nhân tài của nước Việt. Chẳng thế mà vùng Kinh Bắc vẫn lưu truyền câu phương ngôn: “một giỏ ông Ðồ, một bồ ông Cống, một đống Tiến sĩ, một bị Trạng nguyên, một thuyền Bảng nhãn”.
Kinh Bắc chính là vùng đất đứng đầu cả nước về số người đỗ đại khoa, chiếm gần 1/4 tổng số tiến sĩ cả nước. Đóng góp nhân tài cho vùng đất này chính là những dòng họ nhiều đời phát khoa bảng. Trong đó có dòng họ Ngô ở Vọng Nguyệt (Tam Giang, Yên Phong), là một trong tứ lệnh tộc xứ Kinh Bắc, được vua ban chữ vàng “Quang huy tụ”, nghĩa là nơi ánh sáng huy hoàng tụ lại – cũng chính là nhà thờ họ Ngô, nơi sản sinh ra nhân tài tỏa đi muôn phương.
Họ Ngô được mệnh danh là “ngũ đại liên trúng” tức là có 5 đời liên tiếp đỗ đại khoa. Nhưng nếu tính cả chi thứ thì dòng họ này có đến 10 đời đỗ đại khoa, với 5 đời phát tiến sĩ ở chi trưởng và 5 đời phát tiến sĩ ở chi thứ, đều được ghi chép trong “Hợp phả Ngô lệnh tộc” của dòng họ này.
Theo gia phả dòng họ Ngô, thì khi vụ án Lệ Chi Viên xảy ra vào năm 1442 khiến Nguyễn Trãi bị tru di tram tộc, bà Ngô Thị Ngọc Dao là vợ vua Lê Thái Tông mất đi sự che chở và giúp đỡ của Nguyễn Trãi, bị phát khứ đi xa .Cụ Ngô Nguyên vốn có bà con với bà Ngô Thị Ngọc Dao phải lánh nạn về làng Vọng Nguyệt, được quan cả tên là Chu Đình Cần che dấu, giúp đỡ, sau lại gả con gái là Chu Thị Bột cho làm vợ. Họ sinh được 2 người con trai là Ngô Ngọc và Ngô Định. Đây là gốc tích của họ Ngô xứ Kinh Bắc.
Câu chuyện phong thủy
Lời truyền trong dân gian cũng như gia phả họ Ngô đều nhắc đến câu chuyện phong thủy của dòng họ này. Chuyện kể rằng có một người Tàu từ phương xa đến ở tạm trong làng, rồi đi khắp làng rao lên rằng: “Sừng trâu, bầu giác, vườn quýt, ao Lác. Ai có tiền, có bạc thì lão bán cho”.
Thấy người này rao những lời khó hiểu nên trong làng chẳng có ai để ý, duy chỉ có cụ tổ họ Ngô là mời ông này vào nhà ăn cơm, rồi hỏi ý nghĩa của lời rao này. Người khách cười và đáp rằng:
“Tôi thấy ông có phúc phận, được hưởng lộc trời nên cứ quanh quẩn nơi đây. Nay ông đã có lòng hỏi đến thì tôi cũng không giấu. Ở đây có một khu đất tốt, nếu dùng nó làm nhà thờ họ thì sau này con cháu nhất định khởi đạt, vinh hiển nhiều đời. Mảnh đất này nếu không gặp được người hữu phước thì cũng chỉ như mảnh đất thường mà thôi”.
Nói rồi ông thầy phong thủy nọ giải thích cho cụ tổ họ Ngô biết nội dung lời rao của mình rồi bày cách đặt nhà thờ họ tại “vườn quýt, ao Lác”, tức nằm tại vườn quýt hoang cạnh ao Lác hay còn gọi là ao Gáo. Ao này mang tên đó vì có một cây gáo to mọc ở góc ao. Người dân hay chặt nó đi lấy gỗ, nhưng ngay sau đó cây lại mọc tiếp, mỗi đời đều có một cây gáo to như vậy. Người dân làng thấy vậy mới lưu truyền rằng: “mèo già hóa cáo, gáo già hóa lim”, cho rằng đây là điềm lạ. Dưới ao Lác có giếng tròn và sâu, bùn của ao không bao giờ lấp đầy được.
Sau khi nhà thờ họ Ngô được xây xong, về phong thủy, phía Đông Bắc có một ngõ cụt chấm vào nhà tạo thành hình dạng như cái bút nghiên. Bên trái có một rãnh nước chảy dài đổ xuống ao tạo thành thế “tả thanh long”; bên phải có một ngõ dài chạy xuống sông tạo thành thế “hữu bạch hổ”. Phía bên phải còn có mấy ngõ nữa, từ dưới trông lên thì như bàn tay có 5 ngón. Địa thế nơi đây có đầy đủ “long chầu, hổ phục”, lại có giếng trời giữa ao như gương từ mẫu cho đời sau soi vào.
Mười đời đỗ đại khoa
Sau khi nhà thờ họ xây xong thì dòng tộc họ Ngô bắt đầu phát đường khoa bảng. Chi trưởng có “ngũ đại liên trúng” tức 5 đời liên tiếp đỗ đại khoa được ghi trên bia nhà thờ họ như sau:
Con trai cụ tổ Ngô Nguyên là Ngô Ngọc đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18 (1487) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan tới chức Lễ khoa đô cấp sự trung.
Con của Ngô Ngọc là Ngô Nhân Hải đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Mậu Thìn (1508) đời vua Lê Uy Mục, làm quan tới chức Án sát ngự sử.
Cháu nội của Ngô Nhân Hải là Ngô Nhân Trừng thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Canh Thìn (1580) đời vua Mạc Mậu Hợp, làm quan tới chức Tự khanh.
Con của Ngô Nhân Trừng là Ngô Nhân Triệt đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Đinh Mùi (1607) đời vua Lê Kính Tông, làm quan tới chức Tự khanh.
Con của Ngô Nhân Trừng là Ngô Nhân Tuấn đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Canh Thìn (1640) đời vua Lê Thần Tông, làm quan tới chức thượng thư bộ Hộ.
Khi nói về họ Ngô, Phan Huy Chú phải thốt lên rằng: “Họ Ngô lệnh tộc làng Vọng Nguyệt kể từ cụ Ngô Ngọc đỗ chính bảng thời Hồng Đức, cả thảy có 5 đời đỗ Tiến sĩ thực là hiếm có xưa nay!”
Chi thứ của họ này từ cụ Ngô Định di cư vào Diễn Châu, Nghệ An cũng có 5 đời đỗ tiến sĩ. Như vậy tính cả hai chi thì họ Ngô có đến 10 đời đỗ đại khoa.
Hiện nay nhà thờ họ Ngô ở Diễn Châu, Nghệ An đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nhà thờ họ Ngô ở Vọng Nguyệt trước đây được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, đến năm 2015 đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Trở lại với quá khứ và ấm lòng nhân hậu cảm động trời đất
Năm 1460, con trai của bà Ngô Thị Ngọc Dao là Lê Tư Thành lên ngôi vua hiệu là Lê Thánh Tông. Đến năm 1464 thì nhà vua minh oan cho Nguyễn Trãi, từ đó ông Ngô Nguyên trở về kinh thành mà không thấy trở lại nữa.
Ở quê nhà, bà Chu Thị Bột hay lam hay làm lại giỏi giang nên của cải trong nhà ngày càng nhiều, trở thành người giàu có trong vùng. Khi ấy vùng Kinh Bắc mất mùa, người dân đói khát, bà Chu Thị Bột đã cho phát chẩn lương thực cứu đói. Người dân Kinh Bắc kháo nhau tìm bà cụ để nhận thóc, nhờ đó người dân Kinh Bắc thoát được những ngày tháng khó khăn. Cũng từ đó người dân gọi bà Chu Thị Bột là “cụ thí thóc”.
Thế nhưng khi bà Chu Thị Bột bố thí hết của cải để cứu dân thì mất mùa vẫn liên tiếp xảy ra, lại cộng thêm dịch bệnh hoành hoành, nên bà lâm vào cảnh khó khăn vất vả, lâm bệnh nặng. Biết mình không qua khỏi, bà dặn con cháu rằng khi bà mất thì hãy chôn ở cánh đồng Hàn Phấn.
“Cụ thí thóc” mất vào ngày 17 tháng Giêng mà không còn một chút của cải nào để lại, điều duy nhất bà để lại là “đức” cho con cháu.
Con cháu nghe lời bà dặn, đến tối đưa bà đi an táng, đến cánh đồng Hán Phấn thì đột nhiên mưa to gió lớn, sấm chớp nổi lên đùng đoàng, dây thừng bị đứt khiến không thể chôn cất được. Thấy thế con cháu bảo nhau nên về đến sáng hôm sau quay lại chôn cất cho bà.
Sáng hôm sau con cháu trở lại thì thấy chỗ đặt thi hài bà hôm trước mối đã đùn cao thành đống mồ. Tất cả đều cho rằng đây là đất thiêng nên mới được “thiên táng”, nên mọi người cứ đắp tiếp thành mộ.
Sau này nhiều người cho rằng, chính vì được thiên táng nên bà Chu Thị Bột đã phù hộ cho con cháu họ Ngô được hiển vinh lâu dài trên đường học vấn.
Vua Lê khi nghe câu chuyện này đã phong cho bà bốn chữ vàng: “Phụ tiết tinh môn”. Còn người dân thì không ai quên được “cụ thí thóc” nên cứ đến ngày 17 tháng Giêng hàng năm người dân khắp vùng lại đến thăm ngôi mộ. Họ đến đây thắp hương, hát ca trù, và nghe kể câu chuyện về bà Chu Thị Bột năm xưa đã phân phát thóc và toàn bộ gia tài của mình để cứu đói cho dân…
Đến tận ngày nay ngôi mộ “thiên táng” vẫn còn di tích nguyên trạng. Năm 2008, họ Ngô đã xây lăng cho bà theo mẫu 8 phương 10 hướng 4 cửa chính ra vào.( Còn nữa)
Theo Trần Hưng – Trithucvn