Lịch sử gìn gữ giang sơn của người Việt cũng ghi nhận nhiều lần quân Việt tiến đánh Trung Quốc. Nhưng khác với các cuộc xâm lược của Trung Quốc, các cuộc tiến đánh của quân Việt đa phần là nhằm tiêu diệt bớt binh lực Trung Quốc và thị uy, rồi lại rút về.
Trước khi dành độc lập, người Việt cũng từng tiến sang lãnh thổ Trung Quốc, như trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Sau ngàn năm đô hộ, chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán năm 938 đã mở ra thời kỳ mới cho nước Việt, thời kỳ tự chủ. Người Việt không chỉ chiến thắng các cuộc xâm lược từ phương Bắc, mà còn đem quân Bắc tiến, tiêu diệt sinh lực và ý định xâm lược của người Hán, thể hiện sức mạnh của mình, rồi rút về
Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở ra thời kỳ tự chủ cho dân tộc. (Bìa sách lịch sử của NXB Kim Đồng)
Lịch sử đã chứng kiến những lần quân Việt vượt biên giới đánh sang Trung Quốc như sau:
Thời tiền Lê
-Năm 995, hơn 100 chiến thuyền của Đại Cồ Việt đã tiến sang bờ biển nước Tống, đánh vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu.
-Đến mùa hè năm 995, đội hương binh 5.000 người ở châu Tô Mậu (Lạng Sơn) của Đại Cồ Việt đã tấn công vào Ung Châu rồi lui binh.
Thời nhà Lý
-Năm 1022 vua Lý Thái Tổ đã sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh giặc Đại Nguyên Lịch.
-Năm 1052 thủ lĩnh người dân tộc Tày, Nùng là Nùng Trí Cao đưa quân vượt biên giới đánh Tống chiếm được nhiều châu quận.
-Năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho quân đánh Khâm Châu nước Tống.
-Năm 1060, châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đánh vào đất Tống nhằm cứu dân Việt bị bắt trở về.
-Năm 1076, quân Tống chuẩn bị đánh Đại Việt, tập kết quân lương ở Ung Châu, Lý Thường Kiệt chủ động đưa quân tiến đánh vào Ung Châu của nhà Tống.
Thời nhà Trần
-Năm 1241, nhiều toán cướp từ đất Tống thường quấy nhiễu biên giới, vua Trần Thái Tông sai đốc tướng Phạm Kính Ân đem quân vượt biên giới đánh vào hang ổ quân cướp rồi rút về.
-Năm 1241 đích thân vua Trần Thái Tông đánh sang đất Tống, tấn công nhiều châu, trại.
-Năm 1242, biên giới có biến, tướng Trần Khuê Bình vượt biên đánh vào lộ Bằng Tường của nước Tống để dẹp loạn.
-Năm 1266 thủy binh Đại Việt đánh đến tận núi Ô Lôi (Quảng Đông) trong đất Tống nhờ đó phát hiện quân Nguyên có kế hoạch đánh Đại Việt.
-Năm 1285 lúc này quân Mông Cổ chiếm được Trung Quốc lập ra nhà Nguyên và đưa quân đánh Đại Việt nhưng thua trận phải rút về. Quân Việt truy kích đuổi theo tràn qua cả biên giới vào sâu trong lãnh thổ quân Nguyên ở Vân Nam và Tư Minh.
-Năm 1313 quân Việt tiến đánh nhà Nguyên ở Vân Động, châu Trấn Yên, sau đó tấn công các xứ Lôi Động, Tri Động và châu Quy Thuận, Dưỡng Lợi. Nhà Nguyên phải cho sứ đến thương lượng quân Đại Việt mới rút lui.
Thời hậu Lê
-Năm 1438, thổ quan châu Tư Lang của Đại Việt đem quân đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây), vua Minh phải sai sứ sang nước ta thương thuyết.
-Năm 1480, tổng binh tri Bắc Bình của Đại Việt là Trần Ao sai Đào Phu Hoán đem 600 quân đánh vào Cảm Quả, chiếm được ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc) rồi tiến vào Ban Động.
1. Những đợt tấn công sang đất Tống của vua Lê Đại Hành
Năm 996, hơn 100 chiến thuyền của Đại Cồ Việt vượt biên giới nước Tống đánh vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châm Châu. Vua Tống được tin không những làm lơ mà còn sai sứ giả là Lý Nhược Chiếu mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho vua Lê Đại Hành.
Cũng năm đó, quân Đại Cồ Việt tiến đánh Ung Châu của nhà Tống, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép rằng: “Mùa hạ năm ấy, châu Tô Mậu nước ta lại đem 5 nghìn hương bình xâm lược Ung Châu nước Tống”.
2. Những đợt tấn công sang đất Tống của nhà Lý
Từ thời Lý, triều đình có liên kết chặt chẽ với các thủ lĩnh dân tộc thiểu số ở biên giới phía Bắc, chính các thủ lĩnh này giúp giữ yên vùng biên giới, thậm chí sẵng sàng phối hợp cùng quân triều đình Bắc tiến.
Năm 1022 Lý Thái Tổ sai Dực Thánh Vương đưa quân đánh giặc Đại Nguyên Lịch quấy phá ở biên giới, rồi đuổi theo vào sâu trong đất nhà Tống, đến trấn Như Hồng, quân nhà Lý phá hủy kho tàng rồi rút về.
Nùng Trí Cao tiến đánh Tống
Năm 1052 thủ lĩnh người Tày, Nùng vùng Cao Bằng là Nùng Trí Cao đem quân sang đánh nhà Tống. Được sự hậu thuẫn của các thủ lĩnh người Thái – Tày ở Quảng Tây là Nùng Trí Trung, Nùng Kiến Hậu, quân của Nùng Trí Cao tiến đánh và chiếm được 8 châu thuộc Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay.
Vua Đại Cồ Việt là Lý Thái Tông dâng biểu xin mang quân giúp Tống đánh Nùng Trí Cao. Tuy nhiên danh tướng nhà Tống là Địch Thanh can vua Tống, cho rằng Đại Cồ Việt đưa quân sang nếu phối hợp với Nùng Trí Cao đánh Tống thì sẽ rất nguy hiểm.
Vua Tống nghe lời, không dám để quân Việt giúp, sai các tướng Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh Nùng Trí Cao, nhưng đánh mãi mà không thắng được. Năm 1053 danh tướng Địch Thanh xin đi đánh.
Địch Thanh quyết định dùng “Nhẫn” để đánh, lệnh không ai được phép ra quân, các quân đều chỉ phòng thủ nghiêm ngặt.
Quan Kiểm hạt tỉnh Quảng Tây là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi lệnh cho quân sĩ nghỉ ngơi 10 ngày, quân sĩ được nghỉ ngơi thoải mái không tha thiết đánh trận nữa.
Quân do thám báo tình hình cho Nùng Trí Cao biết, ông cho rằng quân Tống thua nhiều trận đã chán nản, muốn nghỉ ngơi không tham chiến, nên chủ quan không phòng bị.
Lúc này Địch Thanh mới bất ngờ đem toàn quân tiến đánh, kỵ binh hai bên tả hữu áp lại, khiến quân Nùng Trí Cao đại bại.
Vua Lý Thánh Tông tiến binh sang Tống
Sau sự việc này quan hệ hai nước Tống – Việt căng thẳng. Năm 1054 vua Lý Thánh Tông lên ngôi đổi tên nước thành Đại Việt. Vua Tống muốn đánh Đại Việt, vua Lý Thánh Tông chọn cách ngoại giao mềm dẻo, mang cả thú lạ dâng cống cho Tống để thăm dò thái độ. Vua Tống không nhận lễ vật và cho tướng Tiêu Chú mang quân quấy phá biên giới Đại Việt.
Trước sự tình này vua Lý Thánh Tông đã cho quân chống trả rồi vượt biên giới đánh sang đất Tống. Sự kiện này Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi lại rằng: “Đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc”.
Học giả Hoàng Xuân Hãn tìm các sách sử của Trung Quốc có ghi chép lại rằng: Vua Lý đã chiếm các động Cổ Vạn, Tư Lẩm và Chiêm Lăng, giết quan nhà Tống là Lý Duy Tân, bắt nhiều quân Tống nhưng vẫn không lui binh. Vua Tống và các quan lộ Quảng Tây phải ra dụ cấm Tiêu Chú gây sự với Đại Việt, rồi vua Lý mới rút quân về.
Thế nhưng khi quân Việt rút về, xung đột biên giới lại nổ ra. Một số dân Việt bị bắt mang về Tống trốn thoát ở châu Tây Bình của nhà Tống, nhưng viên quan ở đây không trả người mà tìm cách dấu đi số dân này.
Vua Lê Thánh Tông sai phò mã Châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đem quân từ động Giáp sang đòi người. Quân Tống do Tống Sĩ Nghiêu không chịu trả người mà đánh lại. Thân Thiệu Thái đưa quân rút về động Giáp, Tống Sĩ Nghiêu đuổi theo qua biên giới đánh thẳng vào động Giáp nhưng bị quân Đại Việt đánh bại.
Năm 1060 vua Lý Thánh Tông sai Thân Thiệu Thái đánh sang Tống để lấy lại người. Quân Đại Việt lần này chủ động dàn quân tiến sang và đánh bại quân Tống. Tướng chỉ huy quân Tống là Tống Sĩ Nghiêu cùng 4 tướng thuộc hạ bị tử trận. Quân Tống ở Tây Bình không chống nổi.
Chiếm được Tây Bình, quân Đại Việt thừa thắng tiến tới Ung Châu và tấn công trại Vĩnh Bình, quân Tống đại bại, chỉ huy sứ Dương Bảo Tài cùng nhiều quân bị bắt.
Vua Tống sai Thị lang Bộ Lại là Dư Tĩnh tung quân lộ Quảng Nam Tây phản công nhưng lại thất bại.
Sau một loạt các thất bại ở biên giới, vua Tống sa thải các tướng chuyên quấy rối biên giới Đại Việt như Tiêu Cố, Tiêu Chú, rồi sai Dư Tĩnh sang Đại Việt để nghị hòa, mong quân Việt rút về nước và hứa sẽ không xâm phạm biên giới nữa.
Đại Việt đồng ý nghị hòa và rút quân về nước, nhưng không đồng ý trao trả tướng Dương Bảo Tài cùng nhiều quân Tống đã bị bắt, điều này nhằm răn đe các tướng Tống khác đang giữ quân ở biên giới.
(Còn tiếp) Trần Hưng