“Ôi Chúa, hãy xây dựng cho con một đứa con trai đủ mạnh mẽ để nó biết khi nào nó yếu đuối, và đủ can đảm để đối diện với chính mình khi nó sợ hãi; một đứa con sẽ hãnh diện và kiên cường trong thất bại, chân thật, và khiêm tốn, hoà nhã trong chiến thắng”.
MacArthur và…
Douglas MacArthur (1880-1964) là một tướng tài năm sao của quân đội Mỹ trong Thế chiến II, Tham mưu trưởng Quân đội Hoa Kỳ những năm 1930, và sau đó, mặc dù đã về hưu năm 1939, theo yêu cầu của Tổng thống Roosevelt, ông vẫn tiếp tục nhận lãnh trách nhiệm chỉ huy quân đội Mỹ và Đồng minh ở Philippines và sau đó ở Tây Nam Thái Bình Dương. Ông đầu tiên đã bị đánh bạt khỏi Philippines và phải dạt sang Úc, nhưng sau đó thực hiện thắng lợi lời thề của ông: “Tôi sẽ trở lại Philippines”, và đã giải phóng Philippines khỏi sự chiếm đóng của quân Nhật. Năm 1945, ông chính thức tiếp nhận Đầu hàng của Nhật Bản, và cũng là người góp phần to lớn vào việc thiết lập thể chế dân chủ và phục hồi phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của Nhật Bản thời hậu chiến.
Douglas MacArthur thuộc gia đình binh nghiệp. Bố ông, Arthur MacArthur, từng chiến đấu trong cuộc Nội chiến ở bên phía Union dưới sự lãnh đạo của Abraham Lincoln. Cả hai bố con đều được trao tặng Huân chương Danh dự – Medal of Honor – là phần thưởng cao quý nhất trong quân đội Mỹ, cũng là điều hiếm hoi.
Khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ năm 1950, không ai khác, MacArthur lại một lần nữa được cử làm tổng tư lệnh quân đội Liên Hiệp Quốc. Ông đã có công đẩy lùi Bắc Hàn về bên kia giới tuyến. Sau đó Trung Quốc đưa quân tràn xuống tham chiến để bảo vệ đồng minh mình, đánh chiếm luôn cả Seoul. Để trả đũa, MacArthur yêu cầu sử dụng bom nguyên tử. Tổng thống Truman sợ nguy cơ một Thế chiến III, vì đằng sau Trung Quốc là Nga sẵn sàng ứng chiến, nên không chấp nhận. Sau khi quân Liên Hiệp Quốc đẩy lùi quân phía Bắc về lại bên kia vĩ tuyến 38, Truman kêu gọi thương thuyết. Nhưng MacArthur không đồng ý, muốn tiếp tục chiến đấu và đẩy lùi quân phía Bắc xa hơn nữa. Ông bị Tổng thống Truman bãi chức. Quyết định này gây tranh cãi, dẫn đến cuộc khủng hoảng quốc hội, và bị dư luận trong nước chỉ trích gay gắt. Độ ủng hộ tổng thống sau đó xuống thấp. Thêm vào đó, bộ máy hành chánh của ông bị vây khốn bởi một loạt xì căng đan tham nhũng, nên cuối cùng Truman đã quyết định không tái ứng cử. Một Ủy ban chung của Thượng viện có nhiệm vụ xem xét việc bãi chức MacArthur đã đi kết luận: “Việc cách chức Tướng MacArthur là thuộc thẩm quyền của Tổng thống, nhưng những tình huống đó đã tạo ra cú sốc cho lòng tự hào quốc gia.”
MacArthur nổi tiếng trong dân chúng hơn tổng thống Mỹ lúc bấy giờ. Khi trở về, ông được dành cho một sự đón tiếp như một vị anh hùng dân tộc. Ngày 20 tháng 4, 1951 ông đi trong chiếc limousine qua đường phố New York trong tiếng hoan hô và rừng hoa giấy. Một phần tư triệu người đứng chiếm công viên National Mall và đường phố để hoan hô vị anh hùng chiến tranh. Ngày trước đó, với lập trường rất cứng rắn với Trung Quốc, bài diễn văn chia tay của ông tại một buổi họp chung của lưỡng viện bị đứt quãng vài chục lần vì tiếng hoan hô. Ông kết thúc với câu: “Các chiến sĩ già không bao giờ chết; họ chỉ phai nhạt đi thôi” (Old soldiers never die; they just fade away) từ một bài ca balat của binh sĩ Anh trong Thế chiến I mà ông đã học được trong những ngày ở West Point. Rồi ông kết thúc: “Và như người chiến sĩ già trong bài ca balat, tôi bây giờ kết thúc binh nghiệp và sẽ phai nhạt đi, một chiến sĩ đã nỗ lực làm tròn nhiệm vụ như Chúa đã cho anh ta ánh sáng để thấy nhiệm vụ của mình. Xin tạm biệt.”
Trở lại Lời cầu nguyện: Trong những ngày đầu tuyệt vọng của cuộc chiến Thái Bình Dương, ông đã viết những lời cầu nguyện dưới đây cho con trai ông, Arthur, ở Philippines năm 1942, và đọc nhiều lần lời cầu nguyện vào những giờ cầu nguyện buổi sáng. Những lời cầu nguyện của một vị tướng dũng mãnh nhưng có trái tim nhân ái là một bài học giáo dục làm người cao quý. Đó là một di sản tinh thần của ông để lại cho cho con ông và thanh niên thế giới nói chung.
Lời cầu nguyện
“Ôi Chúa, hãy xây dựng cho con một đứa con trai đủ mạnh mẽ để nó biết khi nào nó yếu đuối, và đủ can đảm để đối diện với chính mình khi nó sợ hãi; một đứa con sẽ hãnh diện và kiên cường trong thất bại chân thật, và khiêm tốn, hoà nhã trong chiến thắng.
Hãy xây dựng cho con một đứa con trai mà những điều ước của nó sẽ không thay thế cho hành động; một đứa con trai sẽ biết đến Ngài – và biết rằng tự biết mình là nền tảng căn bản của tri thức.
Con xin Ngài hãy dẫn dắt nó, không phải trên con đường dễ dãi và tiện nghi, mà dưới sự căng thẳng và thúc bách của khó khăn và thách thức. Ở đây, hãy để cho nó học đứng dậy trong bão tố; ở đây, hãy để nó biết cảm thương những ai thất bại.
Hãy xây dựng cho con một đứa con trai mà trái tim của nó sẽ trong sáng, mục tiêu của nó sẽ cao cả; một đứa con trai sẽ làm chủ mình trước khi muốn lãnh đạo người khác; một đứa con sẽ vươn tới tương lai, nhưng không bao giờ quên đi quá khứ.
Sau khi những điều đó đã đạt được, con xin Ngài thêm vào cho nó đủ óc khôi hài, để nó tuy có thể luôn luôn nghiêm chỉnh, nhưng không bao giờ tự xem mình quá quan trọng. Hãy ban cho nó sự khiêm nhường, để nó luôn luôn có thể nhớ lại tính giản đơn của chân lý, tinh thần rộng mở của minh triết đích thực, và sự nhu hòa của sức mạnh đích thực.
Lúc đó, con, bố của nó, mới dám nói thầm rằng “Con đã không sống hoài công.”
DOUGLAS MACARTHUR
Nguyễn Xuân Xanh giới thiệu