T nói với Chén : “Ông xem cho tôi rồi, nói chung là đúng. Bây giờ đến phiên tôi xem cho ông, ông đồng ý không ? Nếu tôi nói về ông đúng, ta kết nghĩa làm anh em, nếu sai thì thôi, ông đồng ý như thế không”. Chén trả lời – Đồng ý.
Xin chuyển sang khả năng kỳ lạ khác.
T thường nói với tôi, T muốn biết một điều T là ai? T đã đi nhiều nơi gặp nhiều thầy nhưng chưa có thầy nào giải đáp được thắc mắc của T.
Lúc đó ở quê tôi xuất hiện một hiện tượng lạ. Một em gái học sinh phổ thông cơ sở được ông già người dân tộc cho cái chén hạt mít – loại chén nhỏ không quai – và một tờ bìa có 24 chữ cái, các số từ 1 đến 10, v.v…như tờ giấy người ta dùng cầu cơ. Ông già người dân tộc hướng dẫn khi cần cầu xin gì thì úp chén vào giữa tờ bìa, đặt lên đó một ngón tay xong hỏi xin điều gì Thần Chén sẽ chạy lần lượt chì vào chữ hoặc số. Ghép lại thành câu Thần cho.
Hỏi hoặc xin điều gì, Chén trả lời chính xác, từ tên, tuổi, vợ, con và, v.v…dân quanh vùng đến xem rất đông. Tôi nói với T hiện tượng lạ ấy, nếu T muốn, tôi sẽ đưa đến để hỏi việc T thắc mắc. T bằng lòng đi.
Đến nơi, sau khi làm các thủ tục, T đặt tay hỏi : « Ông cho biết tôi tên gì ? » Chiếc chén chạy chỉ chữ T…T hỏi « Tôi bao nhiêu tuổi ? », chén chỉ số 3, số 0. Cứ như vậy, T tiếp tục hỏi, Chén tiếp tục trả lời.
-
Tôi có vợ con chưa ? – Có
-
Có mấy con ? – Hai
-
Hàng ngày tôi làm gì ? – Chữa bệnh
-
Có lấy tiền không ? – Không
-
Chữa bệnh không lấy tiền sao bị cấm ? – Vì ganh ghét
-
Bây giờ ông nói cho tôi biết tôi là ai ? Là con Phật.
-
Tôi thế này sao là con Phật được ? – Ông đầu thai
(Hình minh họa)
T nói với Chén : « Ông xem cho tôi rồi, nói chung là đúng. Bây giời đến phiên tôi xem cho ông, ông đồng ý không ? Nếu tôi nói về ông đúng, ta kết nghĩa làm anh em, nếu sai thì thôi, ông đồng ý như thế không ». Chén tả lời – Đồng ý.
Dân trong vùng kéo đến xem rất đông lớp trong lớp ngoài. Lạ nhất là thấy người đi xem bói lại muốn bói cho ông thầy. Tất cả im phăng phắc tập trung theo dõi câu chuyện lạ có một không hai.
T đang ngồi bình thường bỗng rút chân lên thành ghế ngồi kiết già – hoa sen trên hai thành ghế, hai tay chấp lại theo thế ấn Quán Thế Âm để trước bụng, mắt nhắm bắt đầu nói :
-
Ông là người dân tộc ở vùng cao, không phải người kinh ở đồng bằng, đúng không ?
-
Đúng
-
Ông qua đời lúc 34 tuổi đúng không ? – Đúng
-
Khi còn sống ở cõi trần cũng như lúc đã sang thế giới bên kia, ông luôn tu hành nên đã thành công đắc đạo ! – Đúng
-
Hiện nay ông không muốn ở trên núi cao mà thích ngao du xuống đồng bằng và vùng ven biển, đúng không ? – Đúng
-
Bây giờ tôi sẽ nói một câu chuyện làm ông xúc động và chẳng bao giờ quên được. Đó là, lúc trước ông có quen một cô gái cùng dân tộc với ông. Hai người yêu nhau thắm thiết, không rời. Những buổi trăng lên, hai người đưa nhau vào rừng hát chung một bài hát ca ngợi tình yêu. Ông muốn nghe, tôi hát lại bài hát đó cho ông nghe !
-
Ông Chén đáp : – Rất muốn nghe !
T cất tiếng hát bằng tiếng dân tộc nghe du dương, trầm bỏng. Bà con chung quang cũng như tôi nghe không hiểu nhưng cảm nhận được giai điệu tình cảm yêu thương tha thiết từ bài hát toát ra.
Hát xong, T hỏi : « Ông nghe tôi hát bài hát đó có đúng là bài hai anh chị thường hát không ? »
Chén đáp lại : – Hoàn toàn đúng, không có chỗ nào sai, tôi rất cảm động.
T bảo : – Tôi với ông kết nghĩa huynh đệ nhé !
Chén đáp : – Xin tuân lệnh
Câu chuyện đến đây xin kết thúc. Mọi người ra về, không ai không ngạc nhiên và xúc động trước một hiện tượng hết sức lạ lùng, kỳ tuyệt, chưa bao giờ xảy ra trong đời sống con người. Có một chi tiết cần nói thêm là sau buổi gặp giao duyên giữa hai người, kẻ âm, người dương đó, ông Thần Chén hết linh thiêng, cầu xin không được nữa. Một vài người hiếu kỳ phán đoán có lẽ ông T rủ ông Chén đi rồi !
Hôm ấy, tôi có mặt từ đầu đến cuối, trực tiếp chứng kiến, cố gắng tường thuật lại từng chi tiết, tin hay không là quyền của các bạn.
Nhân chuyện gặp ông Chén ở vùng núi Quảng Ngãi, xin kể tiếp câu chuyện nhân vật này gặp một bà cũng người dân tộc thuộc một dân tộc khác ở vùng núi cao Quảng Nam.
Câu chuyện xảy ra đúng vào buổi sáng hôm tôi, bác Hoàng và 5 anh chị em nữa, trong đó có vợ ông Trưởng công an huyện Y đến thăm T bị công an xã lập biên bản( đã nói ở phần trước).
Lập biên bản xong, các ông công an xã ra về, T mời vợ ông Trưởng công an huyện lên phản ngồi và hỏi : « Tôi nghe nói chị được một bà ở cõi vô vi mến, thỉnh thoảng nhập vào và phán bảo nhiều chuyện hay lắm. Giờ chị mời bà ấy về cho tôi hỏi mấy việc được không ? ». Chị trả lời : « Lúc nào bà về là về, em không biết gì hết ! Bà nói gì em cũng không biết, làm sao em mời được ! ».
Chị này khoảng 35 tuổi, nước da trắng mịn, đep gái. T nói tiếp : « Chị không mời được để tôi mời, Chị cứ ngồi yên thế ! ». Nói xong T ngồi kiết già kiểu hoa sen, hai tay chắp lại theo ấn Quán thế âm. Khoảng 3 phút chị ợ lên mấy tiếng và chuyện lạ xảy ra.
Nói xong T ngồi kiết già kiểu hoa sen (ảnh minh họa)
Tôi ngồi gần bên chị nên trông rất rõ. Sau khi ợ mấy tiếng, nước da chị từ màu trắng chuyển sang màu nâu sậm như da người dân tộc. Vẫn nguyên là khuôn mặt của chị, nhưng nét duyên dáng, dễ nhìn của người con gái Kinh trước đó không còn, thay vào là nét mặt người phụ nữ dân tộc kiên nghị, rắn rỏi. Tôi thấy chuyện đó đã là lạ, những diễn biến tiếp theo còn làm tôi và anh em có mặt hôm đó càng ngạc nhiên hơn.
Chị bắt đầu nói, không phải tiếng Kinh mà nói một hơi dài tiếng dân tộc. T đáp lại cũng bằng thứ tiếng dân tộc đó. Hai bên trao đổi với nhau một hồi bằng tiếng dân tộc. Tôi chăm chú nghe, thấy không giống tiếng bài hát dân tộc mà T đã hát lúc gặp ông Chén. Độ 15 phút, T nói tiếng Kinh với anh em : « Vừa rồi bà kể với tôi bà là người dân tộc trên vùng cao Quảng Nam. Nhờ tu hành đắc đạo nên được phong danh hiệu « Cao sơn Thánh mẫu ». Trên phái bà xuống trần nhưng bà rất buồn vì không hoàn thành nhiệm vụ trên giao ».
T vừa nói dứt, chị bật sang nói tiếng Kinh : « Ông nói rất đúng ! Tôi nói thêm để các ông biết. Tôi đã đi nhiều nơi, thấy nhân dân ta chưa phân biệt được đâu là khoa học tâm linh chân chính, đâu là mê tín dị đoan. Những người có chức, có quyền hiện tượng nào cũng cho là mê tín tuốt tuột. Do vậy tôi không làm được nhiệm vụ. Tôi buồn lắm ! ».
Anh em ngồi nghe thắm thía như nuốt từng lời. Riêng tôi, tôi không hiểu biết nhiều về tâm linh nhưng thấy người này có trình độ khá vững, nói như một nhà khoa học
Chị hỏi tiếp T bằng tiếng Kinh : « Ông định hỏi gì tôi thì hỏi đi ? » Từ đây hai bên dùng tiếng Kinh, không nói tiếng dân tộc nữa – có lẽ để cho mọi người cùng nghe. T nói : « Tôi chỉ hỏi bà hai câu thôi. Câu thứ nhất : « Tôi có nên tiếp tục chữa bệnh không, chữa bệnh cho dân không lấy tiền của ai vẫn bị chính quyền cấm. Tôi ngán lắm muốn thôi cho rảnh có được không ? ».
Chị nói : « Ông không được thôi, nhiệm vụ đó quan trọng lắm, có lợi cho dân. Tuy ông có khó khắn, phiền phức, nhưng ông vẫn làm được nhiệm vụ, không giống như tôi ! ».
T hỏi tiếp câu thứ hai : « Chừng nào tôi thoát khỏi khó khăn, phiền phức đó ! » Chị trả lời : « Chỉ vài năm nữa thôi, ông phải tiếp tục rèn luyện tâm đức, cứ chữa khỏi nhiều người, nhiều bệnh, ai cũng công nhận ông chữa đạt hiệu quả sẽ không còn khó khăn, phiền phức nữa ! Tôi nhắc lại, ông không được thôi chữa bệnh đấy ! Nếu ông không hỏi gì nữa, xin chào ông !
Nói xong chị ợ lên mấy tiếng. Gương mặt nâu sậm dần trả lại cho chị nước da trắng mịn như trước. Chị trở lại bình thường. Tôi hỏi chị : « Vừa rồi, chị có biết chị nó gì không ? Chị đáp : « Tôi vừa ngủ một giấc dài có biết gì đâu, giờ thức dậy thấy đầu nặng lắm ! ».
Trong hai mẩu chuyện trên, tôi có suy nghĩ nột điều. T có học tiếng dân tộc hồi nào đâu mà khi vào cuộc anh ta nói thông thạo thứ tiếng của đối phương. Điều đó thật không hiểu nổi, không lý giải được. Nhờ các nhà nghiên cứu tìm đáp số giúp. (Còn tiếp Phần 10) ( Xem Phần 8)
Đại tá Cao Hùng