Ở làng Hoàng Xá (thị trấn Vân Đình, Ứng Hòa, Hà Nội), muốn mời khách ăn cỗ cưới, gia chủ phải đến đủ 3 lần. Nếu không, thực khách sẽ không đến.
Mặc dù ngày nay, một số tập quán xưa đã mai một hoặc biến mất nhưng nhiều phong tục lạ ở đây được ‘người chép sử’ – nhà giáo Đặng Đình Thiêm (SN 1936) của làng dày công ghi chép.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, mời người làng dự tiệc đám cưới rất khó. Gia chủ muốn mời, bắt buộc phải thực hiện lệ ‘Tái thỉnh’. ‘Tái thỉnh là tiếng Hán – Việt, có nghĩa là ‘mời lại’, thể hiện sự cung kính, trân trọng, mong mỏi khách đến’. Nghĩa là, gia chủ phải đến nhà khách 3 lần. Lần một, chủ nhà mời khách đến chơi, ăn trầu và uống nước. Lần thứ hai, cách đám cưới khoảng vài ngày, chủ nhà sẽ ân cần mời tiệc. Lần ba, trước giờ ăn khoảng 2 tiếng đồng hồ, người nhà có đám cưới lại ‘tái thỉnh’. Không có đủ 3 lần như vậy, thực khách sẽ coi như chủ nhà ‘mời rơi’ và không tham dự.
Ngoài ra, gia chủ chỉ khai tiệc vào 1 giờ nhất định. Do vậy, khi đi ăn cưới, bao giờ khách cũng mang theo một cây tăm. Nếu đến nơi mà gia chủ đã khai tiệc, họ “giả vờ” ngậm tăm rồi vào xin kiếu với gia chủ vì trót tiếp khách ở nhà, sau đó lịch sự cáo lui.
Về cỗ bàn, các cụ cao niên thường tự hào: ‘Cỗ làng ta rất hậu hĩnh, phải xếp hai tầng. Cỗ đơn giản cũng phải 8 đĩa – 4 bát; 10 đĩa – 4 bát hoặc 12 đĩa – 5 bát… gồm có: giò nem ninh mọc, bóng mực, vây yến, nem chạo… Nhà càng giàu thì cỗ càng to.
Ngày xưa, một bàn cỗ chỉ dành cho 4 người. Khi dự tiệc, mọi người ăn uống từ tốn, lịch sự, chỉ nhấm nháp là chính. Sau bữa cỗ, chủ nhà sẽ khéo léo chia phần, cử người đem kính tận nhà. Sau này, những thủ tục rườm rà được bãi bỏ, lệ ‘tái thỉnh’ cũng không còn nữa nhưng công thức 10 đĩa, 4 bát vẫn được duy trì.
Ngoài cầu kỳ khi mời khách ăn cỗ, người làng Hoàng Xá còn rất kỹ tính trong việc pha nước mời khách. Thông thường, chiều hôm trước khi diễn ra tiệc cưới, khách sẽ đến chơi nhà cô dâu, chú rể. Gia chủ hãm ấm chè tươi mời khách. Nước rót ra phải còn nguyên màu xanh tươi. Hết một lượt nước, chè ngả màu là phải bỏ đi, không được dùng lại.
Cách hãm chè tươi ở đây cũng rất tinh tế. Người ta chọn loại lá chè ở gốc, dày và nhỏ, mang về rửa sạch, phơi khô rồi tráng qua nước sôi. Sau đó, mang lá chè vò dập bằng tay và cho vào một vỏ sành, đặt trong sọt tre, xung quanh ủ rơm. Bước cuối cùng là lấy nước mưa, đun sôi lăn tăn rồi hãm với chè 20 phút mới mang ra mời khách. Chén nước chè phải đảm bảo xanh, đặc và sánh mới đạt yêu cầu.
Nếu nhà có đám cỗ, gia chủ phải chọn người khéo léo đảm nhiệm việc pha trà. Sau 7 giờ tối, gia chủ bỏ nước chè xanh, thay bằng chè mạn. Chè búp pha thật đặc làm nước cốt, khách tới nhà, người chuyên trách lấy nước sôi, pha với nước cốt mời khách. Dù chè xanh, chè tàu hay chè mạn đều phải đảm bảo 3 yếu tố: màu sắc, hương thơm và vị.
Ngày xưa chưa có phích, nhà có đám phải đắp lò, nhóm lửa liên tục để luôn có nước sôi. Đến nay, dân làng vẫn truyền tai nhau câu ca:
Cơm xong uống nước chè tươi
Tối, trưa tiếp khách, thảnh thơi chè tàu
Người làng bên cho rằng làng Hoàng Xá cầu kỳ nhưng dân làng Hoàng Xá luôn tự hào về nếp sống đó. Lệ này tồn tại mãi đến những năm 80 của thế kỷ 20 mới dần dần bãi bỏ. Ngày nay, việc cỗ bàn ở làng Hoàng Xá đã giản tiện đi nhiều nhưng cách đối đãi với khách vẫn giữ nếp xưa.
ĐKN